PHẬT HỌC » PHẬT HỌC KHÁI LƯỢC
Lược sử đức Phật Thích-ca-mâu-ni (từ Đản sinh đến Thành đạo)
| Saturday, 25.02.2023, 10:07 AM | (285 Xem)
A. Mở đề.
Đức
Phật là đấng Đại hùng - Đại lực - Đại từ bi, thường được tôn xưng đầy đủ mười
danh hiệu: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế tôn; một
bậc Giác ngộ duy nhất mà trong khắp cõi người và trời không ai có thể so sánh
được:
“Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, Thập phương thế giới diệc vô tỉ…”
Và hơn 2,500 năm qua, văn minh của nhân
loại và khoa học tiến bộ của thế giới đã chứng minh điều đó. Mỗi cử chỉ, lời
nói và hành động của đức Phật đều toát lên một ý nghĩa thiêng liêng cao quý,
không ô nhiễm từ tham, sân, si. Cuộc đời của đức Phật là một bài học thánh
thiện tuyệt đối, đạo của Ngài lan rộng khắp năm Châu nhưng không bao giờ vấy
mùi bất thiện, ngược lại nó thấm đượm tình người tràn đầy tình thương và sự sống.
Giáo pháp của Ngài không những ẩn tàng sức mạnh của chánh pháp, có công năng
đẩy lùi mọi tà pháp mà còn đem lại lợi ích thiết thực cho người thực tập. Do
đó, nếu chúng ta là những Phật tử, quy y Tam Bảo, không những tin đức Phật là
Bậc giác ngộ hoàn toàn mà còn phải phát tâm chánh tín đối với Giáo pháp, học hỏi ý nghĩa vi diệu
trong Phật pháp và cần phải thực hành mới có lợi lạc trong việc sống đạo được.
Vì vậy, trước hết chúng ta nên ôn lại lịch sử đức Phật bổn sư Thích-ca-mâu-ni,
bậc Giác ngộ chân lý đã thị hiện trong thế giới Ta Bà nầy để chỉ dẫn cho chúng
sinh con đường Giải thoát mọi khổ đau.
B.
Chánh đề.
I. Bối cảnh xã hội Ấn độ và nhân duyên
đức Phật đản sinh.
Không
phải tự nhiên mà đức Phật thị hiện tại xứ Ấn độ vào thời điểm mà nhân loại còn
đang hoang mang, khốn đốn về kiếp sống con người. Nói như vậy, có nghĩa rằng sự
ra đời của đức Phật đã là cả một nhân duyên lớn mà phần lớn nhân duyên ấy là do
đức Phật quyết định. Kinh Pháp Hoa có dạy: Đức Phật vì đại sự nhân duyên, “muốn khai mở tri kiến cho chúng sinh ngộ
nhập được tri kiến Phật”; giúp cho chúng sinh ra khỏi khổ đau trong ba cõi.
Bên cạnh đó, không phải chỉ có xã hội Ấn độ mà hình như thế giới loài người lúc
ấy cũng như bây giờ vẫn còn sống trong sự phân biệt giai cấp, giẫm đạp lên giá
trị sống của con người và mọi sự sống khác chung quanh con người, thậm chí họ
còn tin vào những định kiến sai lầm như cho rằng con người là do đấng Phạm
thiên thượng đế tối cao tạo ra hoặc ngoại đạo đã tạo ra nhiều tà thuyết không
thích hợp với sự sống của con người. Những tà kiến mhư vậy khiến cho con người
đau khổ không phải chỉ trong kiếp sống hiện tại mà còn nhiều kiếp trong tương
lai. Ngoài ra, về mặt địa lý thì đỉnh Hy-mã-lạp-sơn (Himalaya) là đỉnh núi cao
nhất thế giới, không có đỉnh núi nào có thể sánh kịp. Đây chính là nơi thích
hợp nhất để đức Phật chọn làm chỗ đản sinh. Tuy nhiên, như trên đã nói, mục
đích duy nhất đức Phật ra đời vẫn là để đem lại an lạc hạnh phúc cho con người
và rộng khắp cho tất cả chúng sinh.
II. Đức Phật
đản sinh.
Theo kinh điển để lại, nếu xét về mặt nhân duyên quá khứ thì
sự ra đời của đức Phật Thích-ca-mâu-ni là sự tiếp nối liên tục của chư Phật quá
khứ như Phật Tì-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-phù, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm-Mâu-ni,
Ca-diếp, … từ nơi thai tạng trí tuệ của chư Phật. Trước khi thị hiện ở cõi
Ta-bà, đức Phật đã từng làm thân Bồ-tát bổ xứ ở cõi trời Đâu-suất có tên là Hộ
Minh. Khi công viên quả mãn, xét thấy nhân duyên đã đủ nên Ngài thị hiện đản
sinh thế giới Ta-bà, phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh.
Nhân lúc đó tại Ấn độ, có vua Tịnh-phạn
(Suddhodana), dòng tộc Thích-ca (Sakya) thuộc giai cấp Sát-Đế-Lỵ (Ksatrya) và
Hoàng hậu Ma-ha Ma-da (Maha Maya) là những bậc minh quân hiền đức, nhưng lại
không có con nối ngôi, trị vì. Trong lúc ấy Hoàng hậu Ma-da lại mộng thấy có
con voi trắng sáu ngà nhập vào hông bên phải, bà kể lại giấc mộng cho vua Tịnh
Phạn nghe, vua liền sai quần thần tìm thầy đoán mộng và quả là điềm lành. Sau
đó Hoàng hậu thọ thai và như vậy tin vui này được lan đi khắp nơi trong nước.
Sau gần một năm, theo tục lệ Ấn độ, Hoàng hậu
Ma-da phải về quê mẹ để chuẩn bị cho ngày sinh nở. Trên đường về, trong lúc dạo
chơi ở vườn Lâm-tì-ni thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu - gần Népal bây giờ)
thì Hoàng hậu đản sinh Thái tử, nhằm ngày trăng tròn tháng Visaka, tức là ngày
rằm tháng tư Âm lịch, năm 624 trước Dương lịch (năm 624 theo quyết định của
Đại hội Phật Giáo Thế Giới tại Tích-lan đã được công bố với sự tham cứu nhiều
nguồn sử liệu khác nhau rất có giá trị).
Khi Thái
tử đản sinh, có nhiều điềm lành xuất hiện: quả đất sáu cách rung động, chư
thiên rải hoa cúng dường. Thái tử sinh ra, Ngài bước đi bảy bước, mỗi bước nở
một hoa sen và tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, cất tiếng nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nói
xong, Ngài thị hiện trở lại như một đứa trẻ bình thường (LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ,
tập I, H.T. Thích Thiện Siêu dịch, VNCPHVN, 1997, tr. 19-20). Vua hay tin, cho xa giá đến
rước Thái tử và Hoàng hậu về cung. Sau đó, có đạo sĩ A-tư-đà (Asita) đến xem
tướng Thái tử và bật khóc, nói rằng, Thái tử là một bậc phi phàm, nếu ở đời sẽ
làm Chuyển luân Thánh vương, nếu xuất gia tu học thì sẽ thành Phật; tiếc rằng
tôi nay đã già, chắc không còn sống để được nhge giáo pháp của Ngài.
Thái tử sinh được 7 ngày thì Hoàng hậu Ma-da từ
trần. Vua Tịnh-phạn giao Thái tử cho người dì là Hoàng phi Ma-ha Ba-xà-bà-đề
Kiều-đàm-di (Mahà Prajãpati Gautami) nuôi nấng và chăm sóc.
Thái tử thuộc dòng tộc Thích-ca (Sakya), họ
Cồ-đàm (Gotama), một nhánh của Kiều-tất-la. Ngài tên là Tất-đạt-đa (Sĩ-đạt-ta –
Sidhatha), sau khi thành Phật, có tên là Phật Cồ-đàm (Gotama Buddha).
III. Thời niên thiếu.
Thái tử là
một bậc thông minh xuất chúng, văn võ song toàn. Những vị thầy đến dạy cho Ngài
đều khen ngợi và kính nể. Người thầy nổi tiếng nhất thời bấy giờ là
Sằn-đề-đề-bà cũng rất phục. Năm 14 tuổi, Ngài đã thông thạo hết kinh điển Vệ-đà
và thiện xảo cả võ công lẫn văn trị. Tuy vậy, Ngài luôn tỏ ra tính khí ôn hòa,
lễ độ, có tâm từ ái, thương người, thương vật. Ngài không bao giờ kiêu căng hay
khinh suất; ngược lại, Ngài thân thiện bình đẳng với mọi người. Bởi vậy, trên
từ Vua cha, dưới đến bề tôi, tất cả đều rất quý trọng Ngài. Vua Tịnh Phạn rất
hy vọng cho sự kế vị ngai vàng. Nhưng điều này rất khó có thể xảy ra, vì trên
nét mặt của Ngài luôn hiện rõ ý muốn xuất gia tầm đạo, cứu độ chúng sinh.
Càng lớn lên thái
tử càng tỏ ra đắn đo, suy nghĩ. Nhớ lời đoán xưa của đạo sĩ A-tư-đà, vua
Tịnh-phạn hết sức lo lắng, sợ thái tử sẽ xuất gia. Vua truyền lệnh cho xây cất
ba tòa lâu đài thích hợp với ba mùa (Ấn độ có 3 mùa khắc nghiệt: mùa nóng, mùa
lạnh; và mùa mưa); tuyển chọn cung phi mỹ nữ ngày đêm hầu hạ, đàn ca xướng
hát để mua vui cho thái tử. Vua còn buộc Thái tử kết hôn với Công chúa con Vua
Thiện Giác là nàng Da-du-đà-la (Yasodara), mười ba năm sau, sinh hạ một Hoàng
tử tên là La-hầu-la (Rahula).
Tóm lại, lịch sử đức Phật
Thích-ca-mâu-ni là lịch sử của cả một dòng sống vừa đem lại an lạc hạnh phúc
cho mình, vừa đem lại an lạc hạnh phúc cho chúng sanh. Vì vậy, đức Phật còn gọi
là bậc Tự giác-giác tha- giác hạnh viên mãn, hoàn toàn Giải thoát giác ngộ,
thành tựu 3 đức: Trí đức; Đoạn đức; Ân đức.
-
Trí
đức: Phật trí đầy đủ biết rõ tất cả các pháp.
-
Đoạn
đức: đoạn trừ tất cả các phiền não, lậu hoặc.
-
Ân
đức: cứu độ hết tất cả chúng sanh.
Ân đức của đức Phật đối với chúng ta vô cùng
sâu nặng, nếu Ngài không xuất hiện trong cõi Ta Bà nầy, Ngài cũng không để lại
giáo pháp thì chúng ta có thể được xem như những người có mắt mà không thấy,
giống như những người mù rờ voi rồi hý luận tranh chấp. Vì sao vậy? Bởi vì nếu
đức Phật không thị hiện Đản sinh trong cõi Ta-bà để chỉ đường đi tới Giải thoát
giác ngộ thì chúng ta không biết đường nào chánh để đi, lối nào là tà để tránh.
Nếu đức Phật không giảng dạy Giáo pháp thì chúng ta không thể nào tránh được sự
nguy hiểm của tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến.
Do đó, để cảm niệm ân đức Đản sinh, Thành đạo
của đức Phật Bổn sư Thích-ca-mâu-ni, chúng ta nên chánh tín Tam bảo, tinh tấn
áp dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày đối với tự thân để đem lại
lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh