PHẬT HỌC » PHẬT HỌC KHÁI LƯỢC
Lược sử đức Phật Thích-ca-mâu-ni (từ Thành đạo đến Niết Bàn)
| Saturday, 25.02.2023, 02:49 PM | (274 Xem)
A. MỞ
ĐỀ
Phần 1 chúng ta
đã học những điểm lịch sử quan trọng trong suốt 35 năm từ Đản sanh đến Thành
đạo của đức Phật Thích-ca-mâu-ni. Để tiếp tục phần 1, hôm nay chúng ta học tiếp
phần 2, giai đoạn 45 năm lịch sử đức Phật Thích-ca-mâu-ni từ Thành đạo đến
Niết-bàn. Đây là một trong những giai đoạn lịch sử mà Phật tử chúng ta chưa nắm
vững những điểm cơ bản, nên thường hoang mang hoặc hiểu lầm về cuộc đời hoằng
hóa độ sanh của đức Phật không phải là ít. Đức Phật đã từng dạy: “Các người tin Ta, theo đạo của Ta mà không
hiểu Ta và giáo pháp của Ta là không những phỉ báng Ta mà còn phỉ báng đạo của
ta nữa”. Do đó, hôm nay chúng ta phải phát tâm dõng mãnh để học và tìm hiểu
về giai đoạn lịch sử quan trọng này. Được như vậy thì sự học của chúng ta không
phải để làm thỏa mãn sự tò mò của kiến thức mà chắc chắn là để xác tín niềm tin
chánh pháp và cũng cố thêm trong việc tu sửa 3 nghiệp thân, khẩu, ý của chính
chúng ta. Có như vậy, việc học đạo-tu đạo- sống đạo mới có ích lợi cụ thể.
B.
CHÁNH ĐỀ
I. Chuyển pháp luân.
Sau
khi Thành đạo, đức Phật đầy đủ thân trang nghiêm với 32 tướng và 80 vẻ đẹp. Lúc
này Ngài đang an trú định tại cội cây Bồ-đề để thọ pháp lạc mà Ngài vừa chứng
ngộ, đó là giáo lý Duyên khởi. Ngài định đem giáo lý này ra để nói cho chúng
sinh. Nhưng giáo lý này rất vi diệu, thù thắng, sâu kín, khó thấy khó biết, còn
chúng sanh thì ham mê ái dục, đắm say trong ái dục, làm thế nào có thể có pháp
nhãn để chứng ngộ được pháp Duyên khởi ấy. Chính vì điều này mà đức Phật do dự,
không muốn thuyết pháp, nhưng Phạm thiên Sahampati biết được tính cần thiết của
giáo pháp này đối với chúng sinh; do đó, Phạm thiên đến thỉnh Phật thuyết pháp: “Bạch đức Thế Tôn, hãy thuyết pháp; bậc
Thiện thệ, hãy thuyết pháp. Có những chúng sinh ít bụi trần che phủ sẽ bị nguy
hại nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu được nghe, họ sẽ thâm hiểu Chánh pháp.
Tại xứ Ma-kiệt-đà lắm tà pháp, không thanh tịnh, do tuế tâm kiến lập. Bạch đức
Thế Tôn, hãy mở cửa bất tử để chúng sinh được nghe pháp, do bậc Thánh vô uế đã
chân chánh giác ngộ. Như đứng trên tảng đá tại chóp đỉnh núi cao, đưa mắt nhìn
chúng sinh. Cũng vậy, bậc Thiện thệ hãy lên lầu Chánh giác, biến nhãn không sầu
muộn nhìn xuống đám quần sinh bị ưu sầu khổ não, bị sinh già áp bức. Đấng Anh
hùng, hãy đứng lên, bậc Chiến thắng chiến trường đã thoát ly nợ nần. Thế Tôn
hãy thuyết pháp, bộ hành khắp thế gian, có người nhờ được nghe mà thâm hiệu
diệu nghĩa”. Sau đó, đức Phật vì chúng sinh, nhìn đời với Phật nhãn. Trong
khi nhìn như vậy, đức Phật thấy chúng sinh có hạng ít nhiễm bụi đời, có hạng
độn căn, có hạng lợi căn, có hạng tánh thuận, có hạng tánh nghịch, có hạng dễ
dạy, có hạng khó dạy và có một số thấy sự nguy hiểm của những hành động lỗi
lầm. Ví như hồ sen xanh, có số ở trên mặt nước, có số ở dưới mặt nước, có số
sinh ra dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước nhưng không bị nước bùn làm ô nhiễm
nó. Vì vậy đức Phật đã trả lời cho Phạm thiên: “Cửa bất tử đã mở, ai có tai hãy
lắng nghe”. Do Phật trí sáng suốt, từ tâm vô lượng thương tưởng thế gian, đức
Phật bắt đầu vận chuyển Pháp luân (Dhamma - cakkapavatana), cứu khổ cho chúng
sanh.
II. Giáo hóa độ sanh.
Trong khi đức Phật dự định đi thuyết pháp độ sanh
thì có một đoàn lái buôn cầm đầu bởi hai thương gia là Đế-lê-phú-bà (Tapassu)
và Bạt-lê-ca (Bhallika), từ xứ U-ka-la (Ukkala nay là tiểu bang Orissa) đi đến
thành Vương-xá để buôn bán. Nhân một hôm đi ngang qua cây Bồ-đề định dừng lại
nghỉ chân, không ngờ đã gặp đức Phật, liền phát tâm cúng dường Ngài bát cháo
mật đã chuẫn bị sẳn. Và sau khi cúng dường xong, vì thấy tóc và móng tay của
đức Phật quá dài nên họ xin cắt một ít đem về thờ (Tóc và móng nầy hiện
tại đang được thờ ở chùa Shwedagon, nước Miến Điện) và cũng có ý nghĩa như muốn cất giữ kỹ vật thiêng liêng của bậc Giác
ngộ. Sau đó đức Phật đi đến thành Vương-xá, chỗ hai ông A-la-la Ka-la-ma (Àlàra
Kàlàma) và Uất-đầu-lam-phất (Uddaka Ràmaputta), nhưng cả hai đều đã qua đời.
Đức Phật lại đến vườn Nai (Lộc uyển – Isipatana), gần thành Ba-la-nại (Benares)
để thuyết pháp hóa độ cho 5 anh em ông Kiều-trần-như, những người bạn cũ đồng
tu khổ hạnh với Ngài trước đây. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp Tứ Đế (Tức
kinh Chuyển Pháp Luân, một trong những kinh quan trọng nói về sự khổ; nguyên
nhân của khổ; sự diệt khổ; và con đường đưa đến sự diệt khổ) 5 vị nầy liền đắc quả A-la-hán và xin làm đệ tử
Phật. Kể từ đây, đầu tiên trong thế giới loài người có được ba ngôi báu Phật,
Pháp Tăng. Vài ngày sau, cũng tại nơi đây, đức Phật độ cho ông Da-xá (Yasa) và
50 người bạn của ông xuất gia. Đồng thời Phật độ cho bố mẹ của ông, trở thành 2
cư sĩ Phật tử đầu tiên trong giáo pháp đức Phật. Kế đến, Phật cùng gần 60 đệ tử
tiếp tục đi và trên đường dừng lại nghỉ chân, Ngài độ cho 30 thanh niên nhạc
sĩ. Sau đó, đức Phật đi đến Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela) và đã gặp ba anh em ông
Ca-diếp là những người có danh tiếng và đang khổ công tu luyện theo đạo Thần lửa
tại đây. Đầu tiên, Ngài thuần phục con rắn thần rất độc đã giết chết nhiều
người; nhân đó đức Phật giảng bài kinh Lửa (Adittapariyaya-sutta; Kinh
này đức Phật dạy rằng: Thế gian nầy đang rực cháy bằng chính ngọn lửa tham,
sân, si…của con người, do đó làm cho cuộc sống điên đão, khổ đau. Đệ tử của đức
Phật là những người tình nguyện dập tắt ngọn lửa ấy) cho ba anh em ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (Uruvela Kassapa), Na-đề
Ca-diếp (Nadi Kassapa), Già-da Ca-diếp (Gaya Kassapa) cùng với 1.000 đệ tử của
họ. Ông anh đầu có 500 đệ tử, ông thứ nhì có 300 và ông em út có 200 nhưng khi
nghe đức Phật thuyết giảng, họ đều xin quy y Phật. Sau đó, đức Phật cùng các đệ
tử đi đến thành Vương-xá (Rajagaha) ở làng Upatissa; tại đây, Ngài độ cho Tôn
giả Xá-lợi-phất (Sariputta) và Mục-kiền-liên (Moggalana) cùng với các đệ tử của
hai vị này. Nhân duyên được kể thế này: Một hôm gặp Ngài Ác-bệ (Assaji) đang
trên đường đi khất thực, Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến hỏi và đã được vị này nói
cho nghe một bài kệ:
“Chư pháp tùng duyên sinh,
Diệc tùng nhân duyên diệt,
Ngã Phật đại sa-môn,
Thường tác như thị thuyết”
(Các
pháp từ duyên sinh,
Cũng
từ nhân duyên diệt
Đức
Phật, Đại sa-môn,
Thường
thuyết pháp như vậy.)
Nghe
xong Tôn giả Xá-lợi-phất ngộ được pháp
Duyên khởi, bèn trở về mách cùng bạn mình. Cả hai cùng đến quy y đức Phật và
không bao lâu cũng đều chứng quả A-la-hán và trở thành hai vị đệ tử thượng thủ
của đức Phật. Để thực hiện lời hứa với vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) lúc đức
Phật còn là Thái tử nên Ngài đã đến nước Ma-kiệt-đà hóa độ cho Vua. Vua truyền
lệnh cho xây tịnh xá Trúc lâm cúng dường đức Phật để Ngài ở đó thuyết pháp độ
sanh.
Khi vua Tịnh
phạn nghe tin con mình, thái tử Sĩ-đạt-ta đã thành Phật và đang thuyết pháp ở
kinh thành Vương-xá. Tiếng tăm của Ngài giờ đã lan rộng khắp nơi, khong nơi đâu
không biết. Do đó, vua muốn sai Ca-lưu-đà-di (Kàludàyi) đi thỉnh cầu đức Phật
về thăm. Khi nghe tin này, đức Phật và thánh chúng đệ tử quyết định đi thẳng về
Ca-tỳ-la-vệ, nơi Phật đã thị hiện Đản sanh. Vua Tịnh phạn sai quần thần và dân
chúng ra tận cửa thành nghênh đón. Khi gặp Phật, vua quan đảnh lễ và thỉnh Phật thuyết pháp cho vua và
hoàng thân quốc thích. Sau đôi ba lần đức Phật về thăm và thuyết pháp, vua lần
lượt chứng được các quả Thanh văn (Tu đà Hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và cuối
cùng chứng quả A-la-hán). Ngoài ra, đức Phật còn độ cho một số vị hoàng tử,
công thần xuất gia như: A-nan-đà (Ananda), La-hầu-la (Rahula), Đề-bà-đạt-đa
(Devadatta), Nan-đà (Nanda)…
Sau khi cứu độ
cho phụ vương xong, đức Phật rời hoàng cung trở lại nước Xá-vệ (Savatthi),
trong dịp này thì người dì của đức Phật, Ma-ha Ba-xà-bà-đề cùng với 500 người
nữ trong dòng tộc Thích-ca đến xin Phật xuất gia. Sau 3 lần thưa thỉnh và nhờ
có Tôn giả A-nan-đa xin, đức Phật mới chấp thuận cho bà Ma-ha Ba-xà-bà-đề và
những cung nữ theo ba được xuất gia, nhưng phải tuân giữ Bát kỉnh pháp do đức
Phật chế ra. Từ đó, ni chúng có mặt trong giáo đoàn của đức Phật.
Sau 12 năm
hoằng hóa, lúc này những người xin quy y theo đức Phật mỗi ngày mỗi đông, nhất
là hàng ngũ xuất gia, số lượng lên đến trên 1.250 người. Bên cạnh đó, hàng ngũ
cư sĩ quy y theo đức Phật làm người tu tại gia cũng đông vô số. Trên từ vua
quan, trưởng giả, dưới đến tầng lớp nhân dân, nam cũng như nữ, thiện cũng như
ác, trong đó những người nổi tiếng như: vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara), Ba-tư-nặc
(Pasenadi), A-xà-thế (Ajatasattu); thái tử Kỳ-đa (Jetavana), y sĩ Kỳ-bạt
(Jivaka), trưởng giả Cấp-cô-độc (Anàthapindika), tín nữ Tỳ-xá-khư (Visàkha),
Ương-quật-ma-la (Angulimàla), Liên-hoa-sắc (Ambapali), Thuần-đà (Cunda)…
Chúng ta có thể
nói rằng, trong sự nghiệp hoằng hóa độ sanh, đức Phật hoàn toàn tôn trọng giá
trị sống của con người và mọi chúng sanh, Ngài đối xử bình đẳng như nhau, vì sự
thật con người không thể có giai cấp trong có dòng máu cùng đỏ, không thể phân
biệt sang hèn, giàu nghèo trong những giọt nước mắt cùng mặn. Bởi thế, không kể
là người thuộc giai cấp nào ¾
Chiên-đa-la hay Sát-đế-lợi; vua hay dân¾ Ngài đều thuyết pháp và hóa độ cho họ.
Vì thế, trong chúng đệ tử của Ngài, không những có những vị vua như
Tần-bà-sa-la, Bạt-đề-ca, Ba-tư-nặc, mà còn có những người giàu sang như Tu đạt
đa; còn có những người thuộc tần lớp Chiên đà la như Ưu ba ly, kẻ nghèo như
Thuần đà, có hoàng hậu Mạt lỵ, cũng có kỹ nữ tài sắc như nàng Liên Hoa... Tóm
lại, đức Phật đã sáng suốt dùng mọi phương tiện thiện xão để giáo hóa, tùy bệnh
cho thuốc, hợp căn cơ từng người, hợp lý, hợp thời, bằng mọi cách để dẫn dắt
chúng sanh vào chánh đạo.
III. Phật Niết bàn.
Sau khi đức
Phật thọ dụng bữa ăn cúng dường cuối cùng của ông Thuần-đà, đức Phật cùng với
chúng Tăng đi đến xứ Câu-thi-la (Kusinàra), tại rừng Mạt-la (Màla). Ở dưới hai
cây Sa-la, đức Phật sau khi dặn dò và hỏi tăng chúng có ai còn nghi ngờ gì đối
với giáo pháp của Ngài hay không? Tất cả trong hội chúng không có ai nghi ngờ
gì cả nên Ngài A-nan thưa: Bạch đức Thế
Tôn, mặt trăng có thể nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi, nhưng giáo lý của đức
Thế Tôn không có gì là không đúng sự thật, chắc chắn sẽ đem lại an lạc và hạnh
phúc cho những ai thực tập. Đó là chân lý không bao giờ thay đổi. Lúc bấy
giờ có ông Tu-bạt-đà-la (Subhadda) nghe tin đức Phật Niết-bàn, ở xa nên đến trễ
nhưng ông đã đảnh lễ Phật và xin Ngài cho phép xuất gia. Ngài hoan hỷ nhận lời
cho Tu-bạt-đà-la và ông đã chứng quả. Đó là người đệ tử cuối cùng của Phật.
Ngay sau đó, trước khi đức Phật nhập diệt những lời dạy cuối cùng tại rừng Mallas vẫn được tiếp tục: Đức Phật dạy: “Này A-nan-đà, có thể các ông nghĩ rằng, từ nay các ông sẽ không còn đạo sư! Không, không phải! A-nan-đà! Các ông không được nghĩ như vậy. Pháp và luật mà Như Lai đã dạy chính đó là đạo sư của các ông”. Rồi đức Phật dặn dò:
"Y, bát của Ta phó chúc cho Trưởng lão Đại Ca-diếp.Các đệ tử phải lấy giới luật làm thầy. Nhục thân của Ta nên được thực hiện giống như nghi lễ băng hà của bậc Chuyển Luân Thánh Vương và hỏa táng, rồi xây Tháp (stupa) để thờ."
Sau khi
Niết-bàn tối hậu, chúng đệ tử nên chiêm bái ‘bốn nơi Phật tích’ và khuyên những người khác nên chiêm bái, kính
lễ. Vì rằng người nào có duyên chiêm bái ‘bốn
nơi Phật tích’ ấy, có lòng tin kiên cố đối với giáo pháp, thực hành giáo
pháp ấy không mệt mõi, hiện kiếp an lạc, kiếp sau được vãng sanh Phật cảnh. Bốn
nơi Phật tích ấy là: 1) Nơi đức Phật Đản sanh; 2) Nơi đức Phật Thành đạo; 3)
Nơi đức Phật Chuyển Pháp luân đầu tiên; 4) Nơi đức Phật nhập Niết-bàn.
Đức
Phật tiếp tục sách tấn những lời dạy vô cùng cần thiết mà nay lời dạy ấy đã trở
thành lời Di giáo tối hậu: “Các pháp hữu
vi là vô thường biến hoại. Các ông hãy tinh tấn, nỗ lực, đừng để thân này mất
đi, sau này hối tiếc”. Nói như thế xong, đức Phật đi vào
định sơ thiền cho đến định thứ tư của thiền tứ không, rồi nhập lại tứ thiền và
đi vào diệt thọ tưởng định. Tất cả tứ chúng đệ tử của Phật đều im lặng, cả
không gian và thời gian lắng yên phăng phắc, và thực sự đức Phật thị hiện Diệt
độ-Tịch tịnh ¾ Chứng
nhập-Chân lý ¾ Tối
hậu-Niết-bàn.
IV. Lễ Trà-tì và Xá-lợi Phật.
Trưởng
lão Đại Ca-diếp và chúng đệ tử đi nhiễu
quanh đức Phật 3 vòng, đảnh lễ Phật và thực hiện nghi lễ châm lửa hỏa táng.
Tiếp sau đó, Tôn giả Đô-na (Dona) chịu trách nhiệm thu Xá-lợi Phật đựng vào một
cái Ché đặc biệt và xây Tháp để thờ. Nhưng điều nầy chưa kịp thực hiện thì các
Quốc vương khác kéo đến đòi quyền được thờ Xá-lợi Phật để dân chúng nước họ
được an lạc và quốc gia được thái bình.
Do vậy, Xá-lợi Phật được chia 8 phần để mỗi nước họ xây Tháp kính thờ
đức Phật:
- 1.
Cho
vua A-xà-thế (A jàtasattu) xứ Ma-kiệt-đà (Maghada)
- 2. Cho
bộ tộc Thích-ca (Sakya) (Phần Xá-lợi hiện đang được cất giữ tại Viện Bảo Tàng
Quốc Gia Ấn độ ở tiểu bang Calcutta ở xứ Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavattu)
- 3.
Cho
bộ tộc Bạt-lị (Bulì) ở Giá-la-phả (Allakappa).
- 4.
Cho
bộ tộc Câu-lợi (Koliya) ở La-ma-già (Ràmagàma).
- 5.
Cho
các Bà-la-môn ở Tỳ-lưu-đề (Vethadìpa).
- 6.
Cho
dân chúng ở Ba-bà (Pa-va).
- 7. Cho bộ tộc Mạt-la (Mallas) ở Câu-thi-la
(Kusinara).
- 8.
Cho
bộ tộc Li-xa (Licchavi) (Phần xá-lợi của bộ tộc này được phát hiện
năm 1958 sau cuộc điều nghiên do Ban Khảo cổ học thuộc Viện bảo tàng chính phủ
quốc gia Bihàr ở Patna ở tại Tỳ-xá-ly (Vesàli).
Ngoài
ra, bộ tộc Moriya ở Pipphalivana đến trễ và cũng đòi chia phần nhưng đã hết,
cuối cùng họ thỉnh ít tro đem về tôn thờ. Còn lại một cái Ché (Giống như cái hủ
mà Ché này là phần Xá-lợi thứ 10 thuộc về Tôn giả Dona lưu giữ để kính thờ) tôn
giả Dona cất giữ để thờ.
V. Ý nghĩa giáo pháp.
Đây
là muốn nói sự sắp xếp Giáo pháp Phật có hệ thống và nó chỉ có thể xảy ra sau
khi đức Phật đã Niết-bàn. Nó cũng muốn nói rằng:
- Giáo là sự ghi chép, giảng giải lời Phật dạy chơn chánh, không tà vạy khiến cho Phật pháp trụ thế lâu dài dù đức Phật đã Diệt độ;
- Pháp tức là sự thực hành lời Phật dạy một cách chơn chánh, không tà vạy, không bao giờ để mất chánh kiến. Sự thực hành Phật pháp dúng sẽ khiến cho Chánh pháp tỏa khắp trong thế gian, nhờ đó mà tà pháp phải biến mất. Do vì ý nghĩa Giáo và Pháp quan trọng như vậy nên những gì đức Phật thuyết giảng trong 45 năm đã được chư Tổ chia làm 5 thời thuyết giáo, có thể tóm lược như sau:
- -
Thời Kinh Hoa Nghiêm: Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Kinh
Hoa nghiêm cho hàng bồ tát và chúng sinh thượng căn thượng trí. Giáo pháp ấy
thuộc nhất thừa, nghĩa lý sâu xa, vi diệu. Có thể nói đây là giáo lý Duyên
khởi, chân lý tối hậu mà đức Phật đã thật chứng tại cội cây Bồ-đề. Có lẽ vì vậy
mà đức Phật do dự trong việc chuyển bánh xe pháp mà sau này chúng ta thấy Phật
phương tiện thuyết pháp Tứ đế trước. (Phần xá-lợi của bộ tộc này được phát hiện
năm 1958 sau cuộc điều nghiên do Ban Khảo cổ học thuộc Viện bảo tàng chính phủ
quốc gia Bihàr ở Patna)
- -
Thời Kinh A hàm: Đức Phật thuyết Kinh A-hàm, là kinh phù
hợp với căn cơ, trình độ của mọi người, nhằm để chỉ cho họ thấy được nguyên
nhân của khổ và con được thoát khổ. Vì vậy mà chúng ta có thể thấy trong các
Kinh này đức Phật đã sử dụng nhiều thí dụ thực tế, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu
và nhấn mạnh sự thực hành.
- -
Thời Kinh Phương Đẳng: Đức Phật thuyết Kinh Phương đẳng, nhằm
chỉ bày phương pháp tu hành từ Tự giác đến Giác tha, nói rõ diệu dụng và công
hạnh của Bích-chi Phật và Bồ-tát đạo.
- - Thời Kinh Bát-nhã: Đến đây, đức Phật thấy căn cơ của chúng sanh có thể am hiểu giáo lý về thật tướng tánh không của các pháp, nên Ngài dạy Kinh Bát-nhã. Kinh này là một trong những kinh được hệ thống thành hệ Bát-nhã, đã đánh bạt đi tất cả mọi tà thuyết của ngoại đạo chấp thủ, tà kiến và ngụy biện.
- - Thời Kinh Pháp Hoa – Niết-bàn: Đây là thời Kinh cuối cùng, cũng là một trong hai thời kinh tối thượng thừa. Đến thời Kinh này, đức Phật thọ ký cho các hàng Thanh văn và Bồ-tát, nói rõ bản hoài và mục đích của chư Phật ra đời là để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Sự hóa độ đến đây đã được viên mãn. Trong 45 năm thuyết pháp, Ngài đã đi khắp nơi trên xứ Ấn độ để gieo hạt giống Từ bi Trí tuệ. Ngài đi đến đâu tà pháp của ngoại đạo bị hàng phục đến đó, đức Từ bi của Ngài đã cảm hóa được vô số ác tà kiến muốn hại đức Phật và những đệ tử của Ngài.
C. KẾT LUẬN.
Vẫn biết rằng sinh diệt vô thường là chân lý của các pháp hữu vi. Thân Phật cũng là một pháp hữu vi, nên không thể nào thường còn mãi mãi được. Chứng nhập Niết-bàn tối hậu của đức Phật cũng là sự thị hiện để độ sinh, giúp chúng sinh thấy rằng không có một pháp nào tồn tại vĩnh viễn ngoài chánh pháp của đức Như Lai. Điều ấy cũng nói lên ý nghĩa rằng không có một đệ tử nào của Phật có thể mãi mãi dựa vào Phật được, mà phải dựa vào chánh pháp của Ngài để tinh tấn tu tập, lập thệ nguyện kiên cố để gạn lọc và đoạn trừ tất cả mọi cấu uế, phiền não điên đão như tham, sân, si… Học qua lịch sử đức Phật Thích-ca-mâu-ni, chúng ta có thể rút ra những bài học quý báu có giá trị sống:
Đức Phật và đạo của Ngài không dạy con người tham. Sân, si, mạm, nghi, ác kiến… Kinh điển của Phật đã chứng minh điều đó. Nếu bất kỳ người nào, tăng hay tục mà giảng giải Phật pháp hoặc khuyến tu mà có dính liếu với những chất liệu phiền não ở trên thì người ấy không phải là người đáng để chúng ta tin theo.
Đức Phật và đạo của Ngài là đạo Vô ngã,
lịch sử đức Phật của chúng ta đã chứng minh rõ ràng điều đó. Không ai có thể
phủ nhận được đức Phật đã sinh ra nơi gốc cây, thành đạo tại gốc cây, và nhập
diệt cũng tại gốc cây. Cần phải nhớ rằng đấng Từ Phụ của chúng ta là Thái tử,
danh có thừa mà lợi cũng không thiếu. Nhưng đức Phật đã từ bỏ tất cả, vấn đề còn
lại chính là chúng ta có thực sự tu theo Ngài hay không!.
Đức Phật và đạo của Ngài còn gọi là đạo
‘Tịch Tịnh’. Nếu chúng ta tạo ra sự rối loạn của tâm thức, vọng động điên đão
thì đó là lỗi của chúng ta. Không những hiện tại chúng ta bị bất an, khổ đau,
rối ren như con kén trong chính nhợ tơ nó nhả ra mà tương lai chúng ta phải
chịu trách nhiệm trước luật nhân quả.
Vì vậy, là đệ tử Phật, chúng ta phải noi gương
đức Phật, học tập đức tính vô ngã, vị tha và lòng từ bi cao cả của Ngài. Chúng
ta hãy chánh tín Tam Bảo, phát nguyện dõng mãnh học đạo và hành đạo, không được
biếng nhác giải đãi. Được như thế chúng ta mới có thể báo đáp được một phần
thâm ân của đức Phật