PHẬT HỌC » THIỀN HỌC
Làm Lắng Dịu Tư Tưởng
| Thursday, 20.07.2023, 03:47 AM | (274 Xem)
Ý niệm là điều không thể vắng mặt. Nếu không có ý niệm thì ta không thể
phân biệt những sản phẩm trong cửa hàng đều là những quả táo hay quả lê, và
cũng không hiểu được câu sau đây, “Làm ơn cho tôi hai vé cho buổi trình
diễn.". Tuy mình cần có ý niệm trong đời sống hàng ngày, nhưng đôi khi, nó
có thể là một chướng ngại. Chẳng hạn như, để tập trung vào việc hành thiền thì
tất cả những lời huyên thuyên trong tâm trí và định kiến về những gì mà mình
kinh nghiệm phải lắng dịu xuống.
Làm Cho Tâm Tĩnh
Lặng
Để có được định tâm
thì phải làm cho tâm tĩnh lặng, như một số chỉ giáo về thiền định có mô tả, để
tiến đến một trạng thái tự nhiên hơn. Nói một cách rõ ràng thì ta không nhắm
vào việc có được một tâm thức hoàn toàn trống rỗng, như tâm của thây ma, giống
như tắt máy radio. Nếu đó là mục tiêu thì tốt hơn hết là bạn nên đi ngủ. Mục
đích của việc hành thiền là làm tĩnh lặng tất cả các tâm trạng phiền não. Một
số cảm xúc thì rất phiền não, như bồn chồn, lo lắng hay hoảng sợ; mục đích của
mình là làm lắng dịu tất cả các cảm xúc này.
Khi làm cho tâm tĩnh
lặng thì điều mà ta sẽ đạt được là một trạng thái rất sáng suốt và tỉnh giác, một
trạng thái mà ta có thể phát khởi chút ít từ tâm và hiểu biết, hoặc biểu lộ sự
nhiệt tình tự niên của con người mà tất cả chúng ta đều có. Điều đó đòi hỏi một
sự thư giãn vô cùng sâu sắc, không chỉ thư giãn các bắp thịt trong cơ thể, mà
còn thư giãn trí óc và cảm xúc căng thẳng, đó là điều có thể cản trở việc cảm
nhận sự nhiệt tình tự nhiên và sáng suốt của tâm, hay thậm chí ngăn cản việc
cảm nhận bất cứ cảm giác nào.
Một số người hiểu
lầm rằng thiền có nghĩa là mình phải ngừng suy nghĩ. Thay vì ngừng suy nghĩ thì
việc hành thiền nên chấm dứt mọi tạp niệm không cần thiết, chẳng hạn như các ý
nghĩ rối rắm về tương lai (Mình sẽ ăn món gì tối nay đây?), và suy nghĩ tiêu
cực (Hôm qua, bạn đã đối xử nhỏ nhen với tôi. Bạn là một người đáng sợ!). Tất
cả các ý nghĩ đó thuộc về tư tưởng lan man và phiền phức.
Tuy nhiên, việc có
một tâm thức tĩnh lặng chỉ là công cụ, không phải là mục đích
cuối cùng. Khi tâm an tĩnh hơn, sáng suốt và cởi mở hơn thì ta có thể sử dụng
nó một cách xây dựng. Ta có thể sử dụng nó trong đời sống hàng ngày, và cũng có
thể sử dụng nó trong lúc ngồi thiền, để cố thấu hiểu hoàn cảnh trong đời sống
của mình hơn. Với một tâm thức không vướng bận phiền não và tạp niệm thì ta có
thể suy nghĩ một cách sáng suốt hơn về những chủ đề quan trọng như: Từ trước
đến giờ, tôi đã làm gì cho cuộc đời mình? Hay: Chuyện gì đang xảy ra trong mối
quan hệ quan trọng này? Nó lành mạnh hay không lành mạnh? Chúng ta có thể phân
tích nó, điều này được gọi là quán xét nội tâm. Cần có sự sáng suốt để thấu
hiểu những loại vấn đề này, và quán xét nội tâm một cách hữu hiệu. Chúng ta cần
có một tâm thức an tĩnh, tĩnh lặng, và thiền là một công cụ có thể giúp ta đạt
được trạng thái đó.
Các Trạng Thái Hữu
Niệm và Vô Niệm Của Tâm
Nhiều bản văn về
thiền hướng dẫn ta loại bỏ các ý niệm và định tâm vào một trạng thái vô niệm.
Trước hết, chỉ giáo này không áp dụng cho tất cả các pháp thiền. Nó đặc biệt đề
cập đến một pháp thiền cao cấp, để chú trọng vào thực tại. Tuy nhiên, có một dạng
khái niệm mà tất cả các pháp hành thiền cần phải loại bỏ, nhưng để hiểu được
các dạng khái niệm khác nhau, được bàn luận trong sách vở về thiền thì mình
phải hiểu chữ “khái niệm” có nghĩa là gì trong đạo Phật.
Niệm Tưởng Không Chỉ
Đề Cập Đến Tiếng Nói Trong Đầu
Một số người nghĩ
rằng khái niệm liên quan đến những ý nghĩ bình thường xuất hiện trong tâm thức
mỗi ngày – cái gọi là “tiếng nói trong đầu của mình” – và để trở thành vô niệm
thì chỉ cần làm cho tiếng nói đó im lặng. Nhưng làm cho tiếng nói trong đầu
mình im lặng thì chỉ mới là sự bắt đầu, một sự khởi đầu rất quan trọng, nhưng
chỉ là bước đầu tiên. Nó là một phần của việc giúp cho những suy nghĩ xáo trộn
dư thừa lắng dịu, để có một tâm trí sáng suốt hơn và bình tĩnh hơn. Người ta
nghĩ rằng để thực sự hiểu một cái gì đó thì bạn cần phải hiểu nó theo cách vô
niệm, rằng niệm tưởng và sự thấu hiểu đúng đắn là hai điều hoàn toàn biệt lập.
Nó cũng không phải như vậy.
Để gỡ rối cho sự phức tạp về khái niệm thì trước hết, cần phải phân biệt giữa
việc diễn đạt điều gì từ ý nghĩ thành lời nói và việc hiểu biết điều gì. Chúng
ta có thể diễn đạt thành lời điều gì nằm trong ý nghĩ, dù ta có hiểu nó hay
không. Ví dụ, ta có thể tụng thầm trong đầu một bài cầu nguyện bằng tiếng nước
ngoài, dù có hiểu ý nghĩa của nó hay không. Tương tự như vậy, ta có thể hiểu
điều gì đó, dù có thể giải thích nó thành lời ở trong đầu hay không, ví dụ như
khi đang yêu thì cảm giác ra sao.
Vấn đề nhận thức
bằng khái niệm so với nhận thức vô niệm trong thiền không phải là vấn đề hiểu
hay không hiểu điều gì. Tuy nhiên, Trong việc hành thiền cũng như trong cuộc
sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn cần phải duy trì sự hiểu biết, dù bằng khái
niệm hay không, dù có diễn đạt nó thành lời trong đầu hay không. Đôi khi, việc
diễn đạt thành lời cũng hữu ích; đôi khi, nó chẳng hữu ích chút nào, hoặc thậm
chí không cần thiết. Ví dụ khi cột dây giày thì chúng ta đã biết cách làm như
thế nào rồi. Bạn có thật sự cần phải diễn đạt thành lời là bạn phải làm gì với
sợi dây này và sợi dây kia khi cột chúng lại hay không? Không. Thật ra, tôi
nghĩ hầu hết chúng ta sẽ khó mà dùng lời để mô tả cách cột dây giày ra sao. Tuy
vậy, chúng ta lại biết rõ cách cột giày. Nếu không có sự thấu hiểu thì bạn sẽ
không thể làm được bất cứ điều gì trong đời sống, đúng không? Thậm chí, bạn
không thể mở một cánh cửa nữa.
Theo nhiều quan điểm
thì việc diễn đạt thành lời thật sự là một việc có ích; chúng ta cần phải diễn
đạt bằng lời nói, để có thể giao tiếp với người khác. Tuy nhiên, sự diễn đạt tư
tưởng của mình thành lời thì hoàn toàn không cần thiết; nhưng việc diễn đạt
thành lời tự nó là điều trung hòa, nghĩa là nó có thể được sử dụng một cách
tích cực hay tiêu cực. Trên thực tế, có một số pháp thiền hữu ích, liên quan
đến việc diễn đạt thành lời. Ví dụ như việc lập đi lập lại các câu chú trong
đầu là một hình thức diễn đạt thành lời, làm phát sinh và duy trì một loại nhịp
điệu hay rung động nào đó trong tâm thức. Nhịp điệu đều đều của câu chú rất hữu
ích; nó giúp ta tập trung vào một tâm thái nào đó. Ví dụ, khi phát tâm từ bi, nếu
đang tụng minh chú như OM MANI PADME HUM thì bạn sẽ dễ chú tâm vào tâm trạng từ
ái hơn một chút, mặc dù dĩ nhiên là bạn có thể duy trì sự chú ý vào tâm trạng
này mà không cần phải nói thầm bất cứ điều gì trong đầu. Vì vậy, việc diễn đạt
thành lời tự nó không phải là vấn đề. Mặt khác, dĩ nhiên, chắc chắn là chúng ta
cần làm cho tâm trí tĩnh lặng, khi nó chỉ huyên thuyên dài dòng vô ích.
Niệm Tưởng Nghĩa Là
Phân Loại Các Thứ Vào Những Cái Ô Trong Tâm Trí
Nếu vấn đề khái niệm
không phải là một vấn đề về sự diễn đạt thành lời, hay hiểu biết, thì vấn đề là
gì? Tâm khái niệm là gì và chỉ giáo về việc hành thiền có nghĩa là gì, khi nó
nói rằng mình phải dẹp bỏ tâm khái niệm? Chỉ giáo này có liên quan đến tất cả
các giai đoạn và mức độ hành thiền, cũng như với đời sống hàng ngày hay không?
Điều quan trọng là phải làm rõ những điểm này.
Tâm khái niệm nghĩa là suy nghĩ về các
phạm trù, bằng cách đặt chúng vào “những cái ô,” như “tốt” hay “xấu”,
“đen” hay “trắng”, “chó” hay “mèo”.
Bây giờ, chắc chắn
là khi đi chợ thì ta cần phải có khả năng phân biệt đâu là trái táo và đâu là
trái cam, hoặc đâu là trái cây xanh và đâu là trái cây chín. Trong những trường
hợp hàng ngày thì việc suy nghĩ theo các phạm trù như vậy không phải là một vấn
đề, nhưng có những loại phạm trù khác lại có vấn đề. Chúng ta gọi một trong
những số đó là “định kiến.”
Một ví dụ của định
kiến là: “Tôi luôn cho rằng anh có ác ý với tôi. Anh là một người rất tồi, vì
trước đây anh đã làm điều này điều nọ, và giờ đây, bất kể anh làm gì, tôi vẫn
nghĩ anh là kẻ tồi.”. Ta đã xét đoán trước là người này đáng sợ và sẽ tiếp tục
là người đáng sợ đối với mình – đó là một định kiến. Trong ý nghĩ, ta đã đặt
người này vào trong phạm trù hay trong ô “kẻ đáng sợ”. Và dĩ nhiên, nếu suy
nghĩ theo cách này thì ta sẽ gán ý tưởng này vào một người nào đó, rằng: “Hắn
là người ác độc, hắn luôn luôn đối xử thậm tệ với mình”, rồi thì có một chướng
ngại lớn giữa ta và người đó. Định kiến của mình sẽ ảnh hưởng đến cách mình
liên hệ đến người đó ra sao. Vì vậy, định kiến là một tâm thái mà chúng ta xếp
loại, đặt sự vật vào những cái ô trong tâm trí.
Vô Niệm
Tâm vô niệm có rất
nhiều mức độ, nhưng một mức độ là đơn thuần tiếp nhận một hoàn cảnh theo cách
nó xảy ra. Điều này không có nghĩa là bỏ qua tất cả mọi sự hiểu biết bằng khái
niệm. Chẳng hạn, nếu có một con chó đã cắn nhiều người thì nhờ cách suy nghĩ về
con chó theo phạm trù “con chó cắn người” mà chúng ta sẽ thận trọng khi ở gần
nó. Chúng ta sẽ thận trọng một cách hợp lý khi ở gần con vật, nhưng không có
định kiến là: “Chắc chắn con chó đó sẽ cắn mình, nên tôi sẽ không thử đến gần
nó.”. Ở đây, có một sự cân nhắc nhẹ nhàng giữa việc chấp nhận hoàn cảnh đang
xảy ra, đồng thời, không có những định kiến ngăn cản ta trải nghiệm tình huống
một cách trọn vẹn.
Mức độ vô niệm cần thiết trong tất cả
các pháp thiền là một tâm thức thoát khỏi định kiến.
Một trong những chỉ
giáo tổng quát nhất là hành thiền mà không có bất kỳ sự kỳ vọng và lo lắng nào.
Các định kiến về một thời thiền có thể là mong đợi thời thiền sẽ trôi qua một
cách kỳ diệu, hay là lo lắng chân mình sẽ đau, hoặc có ý nghĩ: “Mình sẽ không
thành công.”. Các ý nghĩ mong đợi và lo lắng này là những định kiến, cho dù ta
có diễn đạt chúng thành lời ở trong đầu hay không. Những ý nghĩ như vậy sẽ đặt
để thời thiền kế tiếp vào một ô, hay phạm trù trong đầu, như là “một trải
nghiệm lạ thường” hay “một kinh nghiệm đau đớn”. Một cách tiếp cận thiền bằng
vô niệm là đơn giản chấp nhận bất kỳ điều gì sẽ xảy ra, và giải quyết nó theo
lời chỉ giáo về hành thiền, mà không áp đặt sự phê phán đối với hoàn cảnh đó.
Tóm Tắt