PHẬT HỌC » NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
ỨNG DỤNG TỨ NHIẾP PHÁP TRONG ĐỜI SỐNG THƯỜNG NHẬT
| Thursday, 09.03.2023, 06:05 AM | (255 Xem)
ỨNG DỤNG
TỨ NHIẾP PHÁP TRONG ĐỜI SỐNG THƯỜNG NHẬT
Dẫn nhập
Đạo Phật là con đường dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau, luân hồi. Những người
con của đấng Từ phụ có mặt để tô t thắm cho cuộc đời thêm sắc màu tươi sáng, để
người người rộn rã niềm vui trong an lành, bình yên. Và trong đó, Bồ-tát, những
người sống với lý tưởng vì tha nhân, đi vào đời bằng hành trang đong đầy yêu
thương và hiểu biết của lòng từ bi cùng trí tuệ ngời sáng. Những hành trang đó
phải đâu tự nhiên Bồ-tát có được, mà trên hết là một nỗ lực tu dưỡng, rèn luyện
huân tập trong muôn ngàn tế hạnh của cuộc sống thường nhật, trong vô vàn ưu tư
cho hướng đi về tuệ giác vô thượng mà Đức Phật đã ân cần truyền trao cho tất cả
chúng sanh, hầu mong mọi loài sống trong an vui, hạnh phúc trong ánh đạo vàng.
Bồ-tát vào đời với bốn pháp nhiếp phục tâm người, hầu đưa người vào đạo. Đó
chính là Tứ nhiếp pháp.
TỨ
NHIẾP PHÁP TRONG SỰ TU TẬP CỦA BỒ – TÁT
Khái
niệm Tứ nhiếp pháp Đức Phật dạy như sau về Tứ nhiếp pháp: “Này các Tỳ-kheo, có
bốn nhiếp này. Thế nào là bốn?
Bố
thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự
Này
các Tỳ-kheo, có bốn nhiếp pháp này” [1].
Tứ
nhiếp pháp hay còn gọi là Tứ nhiếp sự, Tứ sự nhiếp pháp, Tứ tập vật, hay gọi
đơn giản là Tứ nhiếp, Tứ sự, Tứ pháp, gồm bốn pháp cao quý là:
- Bố
thí: Bồ-tát chia sẻ cho người những gì người cần về vật chất lẫn tinh thần, bố
thí trong nhà Phật bao gồm: tài thí, pháp thí, vô úy thí [財施, 法施, 無喂施].
- Ái ngữ:
Bồ-tát chan hòa với người bằng ý hướng thiện lành, bằng lời nói nhẹ nhàng, từ tốn
với sự chân thành, đầy tình thương.
- Lợi
hành: Bồ-tát đem lại lợi lạc thiết thực, giúp ích cho người qua những việc làm
của thân, khẩu, ý.
- Đồng
sự: để thực hiện được mục đích giúp người, cứu đời, Bồ-tát luôn đặt mình vào
tình huống, hoàn cảnh của tha nhân để hiểu được người và yêu thương người nhiều
hơn. Từ đó, sự san sẻ của Bồ-tát dành cho người sẽ đong đầy và ý nghĩa hơn.
Vai trò của Tứ nhiếp pháp trong hạnh tu tập
Bố thí [布施]:
Bồ-tát khi bố thí như thế, trao cho như thế, là tất cả niềm
vui của tự thân. Bố thí không chỉ đơn giản là cho đi, mà với nghĩa cử san sẻ
tình thương đó, Bồ-tát mong đưa người về ánh sáng của đạo. Bố thí phải luôn
luôn đi với bi tâm mới là sự bố thí của Bồ-tát. Bố thí thiếu vắng yếu tố bi
tâm, thì sự lệch lạc có thể xảy ra, hậu quả bất thiện có thể phát khởi một cách
khôn lường.
Khi bố thí, Bồ-tát quan sát muôn người và thế giới chung
quanh, để hiểu những nỗi khổ của người khác nhiều hơn, thông cảm với người khác
nhiều hơn, từ đó, lòng từ bi càng được trưởng dưỡng, lan tỏa đến tâm thức mọi
người. Phương thức cho của Bồ-tát phải thắm đượm yêu thương, chân thành với người
trong hoạn nạn, cơ nhỡ. Đã là thân phận một con người, một sinh linh, ai dám chắc
bản thân sẽ vĩnh viễn sống mãi trong cảnh đầy đủ, dư thừa suốt cuộc đời giả tạm
luôn thay đổi, biến chuyển này. Cho nên, chính trong bố thí, Bồ-tát chiêm nghiệm
được cuộc đời, hiểu rõ hơn nữa thân phận mong manh, nhỏ bé biết bao của con người,
cũng như muôn loài vạn hữu chung quanh. Sự mong manh, nhỏ bé ấy trước mọi bão tố,
phong ba của thực tế cuộc sống phức tạp, muộn phiền, nhiễu nhương, vẫn luôn tồn
tại, luôn hiện hữu đó đây, luôn biến chuyển như một dòng nước chảy không dừng.
Đối với Pháp thí [法施]
Bồ-tát học Phật không phải chỉ cho riêng mình, mà còn học
để hướng dẫn tha nhân có hướng đi đúng trong cuộc sống, trên con đường đạo chơn
chánh, xác thực với chí nguyện hướng về cứu cánh Vô thượng Bồ-đề, thâm nhập vào
bản chất hiện hữu của vạn pháp, để có cái nhìn đúng đắn, hiểu được bản chất như
huyễn của vạn hữu, với một tâm thức hợp lý với bản thân, với mọi người và vạn sự
vạn vật chung quanh. Bồ-tát hiểu được vạn hữu đổi thay khôn lường, biến chuyển
không ngừng. Để không tham đắm, không say mê theo đuổi những ảo tưởng viễn
vông, lạc lối. Từ sự hiểu biết của bản thân, Bồ-tát truyền trao cho người
phương pháp để thoát khổ. Cho nên, nhiệm vụ hoằng dương Chánh pháp của Đức Phật
là việc làm không thể thiếu trên bước đường hành đạo của Bồ-tát.
Với hạnh nguyện Pháp thí cho người, Bồ-tát sẽ là người hoằng
dương Chánh pháp cho đời một cách dễ dàng, với các hoạt động như: Tổ chức buổi
giảng pháp tại tu viện, hay tại một đạo tràng trang nghiêm với tất cả sự hiểu
biết sâu sắc của bản thân để truyền trao cho người thật thỏa đáng, hữu ích. Như
trong Kinh Duy-ma-cật sở thuyết, cư sĩ Duy-Ma-Cật, người đã làm vô lượng thiện
lành giúp ích cho bao người, nay bằng phượng tiện thiện xảo, ông hiện thân có bệnh
và mọi người đến viếng thăm ông, từ những vị Trưởng giả quyền quý cho đến giai
cấp cùng đinh, nhân đây, ông giảng pháp cho mọi người. Bằng khả năng thuyết
pháp, Duy-ma-cật muốn mọi người thâm nhập Phật pháp để hiểu đạo, tu đạo và hành
đạo. Ông thuyết giảng một chân lý muôn đời là vạn hữu, kể cả tâm pháp và sắc
pháp, đều biến dịch thay đổi khôn lường, tất cả là sự thể hiện của một quy luật
vận hành vũ trụ, quy luật đó chi phối toàn bộ cuộc sống con người, cả về nhân
sinh quan lẫn vũ trụ quan. Khi nào chúng ta còn tồn tại, thì chúng ta vẫn bị luật
tắc ấy chi phối. Đó chính là luật tắc Duyên khởi, một định luật khách quan. Nó
tự vận hành theo quy tắc của chính nó, như quả đất quay quanh mặt trời, mùa
xuân hoa nở thắm tươi, đông về hoa lá rụng rơi đầy thềm. Không ai có quyền lực
bảo trái đất ngừng quay, không ai có đủ uy lực sai sử để đông về ngàn hoa vẫn
tươi thắm, chim én vẫn lượn bay.
Vì như Bồ-tát biết rằng: “Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến
trăm hoa cười” (Cáo tật thị chúng – Thiền sư Mãn Giác) chỉ là hiện tượng biến dịch
[vô thường], thường chứ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việc sống chết
của con người mà lý vô thường luôn được hiện hữu một cách tự nhiên, thể hiện
quy luật “Duyên khởi trong hiện tướng [trong Thành-trụ-hoại[1]không] của các Pháp”
[2]. Bồ-tát hiểu vô thường là một sự thật miên viễn, một chân lý không bao giờ
dịch chuyển, nhưng Bồ-tát vẫn luôn tâm niệm giữ vững thệ nguyện của mình để sống
đời hiến dâng, để hy sinh, phục vụ cho đời được trọn vẹn. Đối với Vô úy thí [無喂施], Bồ-tát vững vàng trong ý
chí, kiên định trong tâm tư, Bồ-tát bước những bước đi tự tại, an nhiên, không
sợ hãi trước những ma lực viễn vông. Bồ-tát giúp người có được nội lực vô úy,
khiến người vững chãi trong niềm tin đạo, để trải nghiệm vào cuộc sống thế trần
trong bình an và hạnh phúc.
Ái ngữ [愛語]:
Bồ-tát đích thân đi bố thí với lời nói yêu thương, bằng những
lời nói nhã nhặn, nhu hòa để người đối diện bình tâm, để người nhận xóa tan đi
mặc cảm bần cùng vì phải nhận bố thí của người khác mà mưu sinh. Lời nói thân
thương ấy, thoạt nghe tưởng chừng rất đơn giản, nhưng không dễ thực hiện chút
nào. Đó là kinh nghiệm mà bất kỳ ai trong đời đều trải qua, một lần được thấy bản
thân ứng xử đem lại đau thương cho người, chỉ vì một lời nói buông ra trong cơn
nóng giận, không kiềm thúc được. Thậm chí không hẳn là trong phút nóng giận, mất
tự chủ, mà điều đó vẫn dễ dàng xảy ra trong giây phút rất bình tĩnh, sáng suốt.
Chỉ vì một lý do nào đó, muốn người đau khổ, ta lại thản nhiên làm đau người đối
diện. Bản chất con người vốn thế, từ bao đời nay, muôn kiếp không đổi. Bản chất
của tham lam, sân hận, ngu si ngự trị trong chúng sanh như một giấc ngủ triền
miên, không bao giờ tỉnh thức, nên ta cứ thích làm khổ người, làm đau người
không chút đắn đo, không một giây phản tỉnh. Cuộc sống thực tế cho thấy, phải
đâu chỉ có những tác động bên ngoài hoặc vô tình đem đến đau khổ, mà có khi chỉ
do một lời nói, ta đã gieo mầm đau thương đến cho người.
Lợi hành [利行]:
Với tất cả trải nghiệm ấy, Bồ-tát vào đời cẩn trọng trong
từng lời nói, ý tứ trong từng tế hạnh nhỏ nhiệm nhất để đem yêu thương đến cho
tha nhân, làm lợi ích cho người qua nghiệp thân, khẩu, ý. Bồ-tát hiểu rằng:
“Trên tất cả sự cứu giúp bằng lợi hành, là dẫn người ra khỏi đường ác, để không
sa đọa vào cảnh khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nói cách khác, người ít tịnh
tín, ta khuyến khích tăng trưởng tín. Người hay phá giới, ta tìm phương tiện
ngăn chặn không để người sa ngã. Người xan tham keo kiệt ta khuyến khích cho thấy
ích lợi của thí xả” [3].
Đồng sự [同事]
Bồ-tát không dừng lại ở sự chia sẻ những gì mình có, mà
luôn đặt mình vào hoàn cảnh người khác để cảm thông, thương yêu và trao tặng những
gì có thể để cuộc sống tốt đẹp hơn. Muốn thế, Bồ-tát đặt mình vào hoàn cảnh người
khác để hiểu và chia sẻ nhiều hơn. Khi muốn cứu người, muốn cho người niềm vui,
Bồ-tát luôn tự xem mình như người đối diện để biết những yêu cầu cấp thiết của
người đối diện. Tâm Bồ-tát phải đủ độ lượng, đủ từ tâm để bao dung tất cả mức độ
tâm thức từng người, trong muôn vàn tư tưởng và hành động thực tiễn của cuộc sống,
đi vào đời với chí nguyện giúp đời, đem an lành đến cho mọi người trong sự bình
đẳng, không phân chia, không tính toán, không so đo, với tinh thần đồng cảm,
thâm nhập hài hòa trong thư thái nhẹ buông. Như lời Đức Phật dạy: “A-nan, ông
xem Như Lai, khi xưa tu hạnh lành, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; dùng căn
lành này thâu giữ chúng sinh chẳng có phân biệt, đây là cha ta, đây là mẹ ta,
anh em ta, chị em ta, bạn bè thân thích của ta. A-nan, ta đối với chúng sinh chỉ
có một vị bình đẳng, tâm không phân biệt sai khác” [4].
Tâm Bồ-tát luôn giữ sự đồng đẳng trong ứng xử với tất cả mọi
người, vì Bồ[1]tát hiểu rằng chính
thái độ phân biệt của mình sẽ mang lại buồn đau cho người. Thái độ sống đúng là
một yếu tố vô cùng hệ trọng trong cuộc sống tập thể và quan hệ xã hội. Muốn đạt
được thái độ đúng đắn trong giao tiếp ấy, Bồ-tát phải tự huân tập cho chính
mình một hiểu biết đúng đắn, một nhận định chính xác trong từng mối giao lưu, để
sống hài hòa với tất cả, tạo niềm hạnh phúc cho người khác, mà trước hết là cho
chính mình được hạnh phúc. Bồ-tát không chỉ đem lại niềm vui cho người, mà còn
cho chính mình. Bởi nếu muốn giúp tha nhân sống đời hiền thiện, bản thân Bồ-tát
phải là một hình ảnh điển hình, thì mới thu phục được lòng người. Vì vậy, chúng
ta hãy đồng hành cùng nhau để hành trình tu tập ngày càng hanh thông và nới rộng
thêm vòng tay nhân ái, nương tựa, giúp đỡ nhau trên bước đường cùng hướng đến cứu
cánh Vô thượng Bồ-đề. “Đồng sự cao cả nhất là cùng đồng đẳng mục đích” [5], khi
ấy, Bồ-tát với lòng bi mẫn, hòa quyện cùng tâm tư luôn muốn hiểu người để yêu
người, sẽ đạt được mục đích hướng đi mà Bồ-tát hướng tới.
LỢI LẠC NHÂN SINH KHI ÁP DỤNG TỨ NHIẾP PHÁP
Tâm Bồ-tát luôn hướng đến cứu cánh Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác trong mọi tế hạnh của Tứ nhiếp pháp. Cho nên nhất nhất mọi hành động
của thân, khẩu, ý, Bồ-tát luôn ở trong chánh niệm, trong sự tỉnh thức của một
người sống vì mọi người, của một tâm nguyện vì an lạc, hạnh phúc cho nhân quần
xã hội. Ví như Bồ-tát đang thực thi hạnh lắng nghe. Chỉ nghe thôi, chuyện ấy tưởng
chừng rất đơn giản, nhưng nghe thế nào để người nguôi ngoai niềm đau, nỗi khổ;
nghe thế nào để người thức tỉnh cơn mê, nghe thế nào để người tìm được chỗ sống
trong hào quang chư Phật, trong sự nhiệm mầu của Chánh pháp. Bồ-tát nghe bằng
cách tôn trọng ý kiến của người, cẩn trọng khi đưa ra ý kiến, bình nghị khách
quan, không cố chấp, không vị kỷ, không tranh đua thắng bại, chơn chánh trong
tư duy, chính trực trong ý nghĩ, đứng đắn trong hành động, để người người cùng
hướng về chân, thiện, mỹ, cùng đưa nhau đến bến bờ an vui. Vì dù cuộc đời vốn
dĩ nhiều đau thương nhưng những người con Phật vẫn đem lại cho đời nhiều niềm
vui, tìm thấy ý nghĩa chơn thường giữa vô thường.
Với thệ nguyện đã in sâu trong tâm trí, Bồ-tát giữ vững
tâm Bồ đề đi vào khắp chốn nhân gian này như đi vào đất Phật, cõi an lành cho
muôn loài. Với Tứ nhiếp sự, Bồ-tát sẽ thõng tay vào đời trong buông thư, an
lành, vì nhất cử nhất động đều thực thi trong chánh niệm, trong tỉnh thức cẩn
trọng của Bồ-tát. Bồ-tát biết rằng dù không phải mọi việc sẽ êm xuôi, nhưng qua
tất cả, với sức mạnh của tâm nguyện và nội lực của Bồ-đề tâm, Bồ-tát vẫn vượt
qua mọi chướng ngại và tiếp tục tiến lên phía trước. Điều thành tựu ở đây là
trong mọi phương tiện thiện xảo để hoàn thiện mục đích hướng đến của Bồ-tát, tất
cả hòa quyện, đan xen vào nhau một cách nhuần nhuyễn, nhịp nhàng đến diệu kỳ.
Đó chính là sự dung thông với nhau của Tứ nhiếp pháp. Như qua bố thí, Bồ-tát
càng phát triển mạnh mẽ lòng bi mẫn. Khi bố thí để người nhận an lạc, niềm vui
không bao giờ bị che khuất vì mặc cảm nghèo hèn, thì niềm vui được chia sẻ của
Bồ-tát càng giúp cho lời nói, âm thanh phát ra là những ái ngữ trao tặng cho
người. Và muốn có được ái ngữ đó, Bồ-tát sẽ đặt mình vào chỗ đứng của người
khác. Vì có hiểu mới có thương, như thế ái ngữ và đồng sự hòa quyện trong nhau
để thành tựu nhiều lợi ích lợi hành cho tha nhân, đưa đến nhân cách tuyệt vời của
Bồ-tát. Cho nên, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự ở trong nhau, tương thông,
nương tựa nhau. Chúng tương tác, tương duyên, tương thuộc nhau mà thành tựu để
đạt được tâm nguyện cao thượng của Bồ-tát, những người tâm nguyện sống vì người,
vui theo niềm vui của người. Cho nên, khi thực hành một pháp là chúng ta thực
hành cả bốn pháp.
Lịch sử Phật giáo cho thấy sự thành tựu quý giá của hạnh Bồ-tát
với Tứ nhiếp pháp: “Trong các đệ tử tại gia hành bốn nhiếp sự để duy trì đoàn kết
đại chúng, không phải duy chỉ Thủ Trưởng giả, mà những đệ tử tại gia nổi tiếng
như Cấp Cô Độc [Đại và Tiểu], Úc-già, Chất-đa, Pháp Dữ, và Tì-xá[1]khư; bảy vị này đều
được nói là thủ chúng một chúng hội đông đảo và duy trì sự đoàn kết bằng bốn
nhiếp sự” [6]. Cho nên: “Bốn nhiếp pháp là Tịnh độ của Bồ-tát. Khi Bồ-tát thành
Phật, chúng sanh nào được tiếp thọ bởi giải thoát sẽ tái sinh vào đó” [7].
KẾT LUẬN
Qua tất cả, Bồ-tát thực nghiệm bốn pháp lành ấy. Trong ấy,
bố thí không đơn giản chỉ là trao cho; ái ngữ, không thuần nhất là những lời
nói dịu dàng đối diện tha nhân; lợi hành, không chỉ là những lợi lạc nhỏ nhặt
qua thân, khẩu, ý; đồng sự, không phải ngần ấy sự đặt mình vào tâm tư, tình huống
của người để giúp đỡ người vượt qua những khó khăn cuộc đời, những bất trắc của
tâm tư buồn thương. Trên tất cả, Tứ nhiếp pháp là cả một phương pháp khéo léo,
phương tiện thiện xảo thu phục lòng người một cách năng động, hữu hiệu, đưa người
về với đạo. Thực tế, khi chúng ta gần gũi người, yêu thương người chân thật, hướng
người theo cùng một hướng đi để quay về với chánh pháp nhiệm mầu, khi ấy, kết
quả lợi lạc cho người sẽ hiển lộ và người sẽ song hành với chúng ta về hướng
chân, thiện, mỹ của đạo. Như thế, chúng ta xây dựng được một Tịnh độ nhân gian
ngay trong kiếp sống này. Như mùa xuân ấm áp lại về, sau những ngày mùa đông
rét mướt. Tịnh độ là đây, cõi Phật là đây, chúng ta đang thực hiện bản hoài của
chư Phật và cùng nhau báo đáp hồng ân chư Phật trong muôn một, ngõ hầu là đàn
con xứng đáng của đấng Từ phụ tôn kính muôn thuở./.
Chú
thích:
[1] HT. Thích Minh Châu (Việt dịch), Kinh
Tăng Chi Bộ, tập 1, chương Bốn pháp, phẩm Vagga (22-28), Kinh Nhiếp Pháp (số
253, mục III).
[2] Đại Lãn (2007), Thõng tay vào chợ,
NXB. Văn Hóa Sài Gòn, tr. 138.
[3] Tuệ sỹ (2010) Bodhisattvabhūmāv
adhāre yogasthāne daśamaṁ Śīlapaṭalam, Du Già Bồ-tát giới (Bodhisattvabhūmāv
adhāre yogasthāne daśamaṁ Śīlapaṭalam), NXB. Phương Đông, tr.30.
[4] Sa Môn Thích Tịnh Hạnh, Đại Tập 49 –
Bộ Niết Bàn III – Số 376 đến 396, Kinh Đại Bi – Quyển V – Phẩm 13: Trồng Căn
Lành, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn (Đài Loan), 2000, tr. 488.
[5] Tuệ Sỹ (2010), Sđd, tr.30.
[6] Tuệ Sỹ (2010), Sđd, tr.31
[7] Sđd, Duy-Ma-Cật Sở Thuyết, Tuệ Sỹ dịch, tr.79.
-------------------
Source: https://tapchivanhoaphatgiao.com/luu-tru/13334