PHẬT HỌC » NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
Tứ Niệm Xứ Trong Phật Giáo Nguyên Thủy
| Sunday, 12.03.2023, 07:25 AM | (273 Xem)
Tứ Niệm Xứ Trong
Phật Giáo Nguyên Thủy
Chánh Niệm Về Thân
Nhờ có chánh niệm về các loại hơi thở, mà mình mới hiểu
rằng hơi thở ảnh hưởng đến thân thể. Chúng ta sẽ học hỏi rằng việc làm chủ hơi
thở sẽ đưa đến việc làm chủ thân thể.
Chánh Niệm Về Thọ
Nhờ có chánh niệm về các loại lạc thọ và khổ thọ, mà mình
mới hiểu rằng những cảm thọ đó ảnh hưởng đến tâm thức. Chúng ta sẽ học hỏi rằng
việc làm chủ cảm thọ sẽ đưa đến việc làm chủ tâm thức.
Chánh Niệm Về Tâm
Nhờ có chánh niệm về những ý tưởng khác nhau, mà mình mới nhận
ra khi nào thì tư tưởng bị khống chế vì tâm tham ('dod-chags, Phạn
ngữ: raga, Pali: raga), sân (zhe-sdang, Phạn
ngữ: dvesha, Pali: dosa) và si (gti-mug, Phạn
ngữ: moha, Pali: moha), và khi nào thì tư tưởng không
bị chúng khống chế. Chúng ta sẽ nhận ra khi nào thì tâm có trạng thái trạo cử (rgod-pa,
Phạn ngữ: auddhatya, Pali: uddhacca, trạo cử) hay hạnh
phúc (bde-ba, Phạn ngữ: su:kha, Pali: sukkha,
hạnh phúc) và có minh sát tuệ (lhag -mthong, Phạn ngữ: vipashyana,
Pali: vipassana), khi tâm phóng dật hay an định, khi tâm bị ràng
buộc hay tự do. Chúng ta sẽ học cách làm chủ tâm thức, bằng cách kiểm soát tư
tưởng, để tâm có thể đạt được trạng thái giải thoát tối thượng. Do đó, ở giai
đoạn này, ta sẽ học cách thành tựu tam muội (ting-nge-'dzin, Phạn
ngữ: samadhi, Pali: samadhi, đại định). Ta sẽ thành tựu
tam muội, bằng cách buông bỏ tâm trạo cử và vọng tưởng. Một định tâm như vậy có
ba phẩm chất là ổn định hay vững chãi, tịnh hóa, nên thoát khỏi bất cứ yếu tố
phiền nhiễu nào, và thích hợp để áp dụng cho bất cứ điều gì.
Sau đó, chúng ta sẽ áp dụng cách xả bỏ, để buông bỏ bốn
loại đối tượng của tâm sở thủ (len-pa, Phạn ngữ: upadana) –
tâm sở mà qua đó, mình sẽ kinh qua luân hồi tiếp diễn. Nhờ thấy được nỗi khổ mà
tâm chấp thủ tạo ra cho mình, thì ta mới buông bỏ:
·
Các đối tượng giác quan mà mình quyến luyến
·
Tà kiến, tà thuyết, ý kiến và niềm tin mê lầm
·
Các hoạt động và hành trì dựa vào mê tín tôn giáo và thế
tục, và tri kiến sai lầm
·
Tất cả những điều mà mình quyến luyến như là “tôi” và “của
tôi”.
Chánh Niệm Về Pháp
Nhờ có chánh niệm chặt chẽ về ba đối tượng đầu một lần nữa,
nhưng bây giờ, với định tâm, thì mình sẽ có được chánh niệm về bản tánh của
chúng. Một lần nữa, chánh niệm sẽ chú trọng (1) vào hơi thở; (2) vào cảm thọ
hoan hỷ (dga'-ba, Skt. priti, Pali: piti, hỷ) và
cảm thọ hạnh phúc (vui sướng) của sự mãn nguyện, là kết quả của chánh niệm có
định tâm, và sau đó là (3) vào các tư tưởng. Ta sẽ quan sát sự biến đổi liên
tục của chúng, và sự biến đổi liên tục của tất cả các pháp mà chúng ảnh hưởng
đến, nên sẽ chứng ngộ tánh vô thường (mi-rtag-pa, Phạn ngữ: anitya,
Pali: anicca) của tất cả pháp hữu vi ('dus-byas, Phạn
ngữ: samskara, Pali: sankhara, pháp duyên sinh). Các
pháp hữu vi bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến những yếu tố khác, các yếu tố bị
chúng ảnh hưởng, và hoạt động hay quá trình của điều gì ảnh hưởng đến điều
khác. Khi chứng ngộ tánh vô thường của tất cả những pháp này, thì mình cũng
chứng ngộ bản chất khổ của chúng (bản chất bất toại nguyện của chúng) (sdug-bsngal,
Phạn ngữ: duhkha, Pali: dukkha).
Chúng
ta chỉ chứng ngộ trọn vẹn tánh vô thường tất cả các pháp hữu vi, khi mình chứng
ngộ rằng nhờ vào việc có chánh niệm liên tục và quán sát các đối tượng của
mình, đó là bốn đặc điểm xa hơn về tất cả các pháp hữu vi. Việc chứng ngộ tánh
vô thường và khổ sẽ đưa đến việc chứng ngộ đặc điểm xa hơn đầu tiên, và việc
chứng ngộ điểm đầu tiên sẽ dẫn đến việc chứng ngộ điểm thứ hai, v.v...
·
Tánh vô ngã (bdag-med, Phạn ngữ: anatmya,
Pali: anatta) – nhờ việc chú tâm, với chánh niệm và chứng ngộ, vào
các pháp hữu vi vô thường, bất toại nguyện, mà mình nhận ra là chúng ở ngoài
tầm kiểm soát của mình.
·
Không tướng (stong-nyid, Phạn ngữ: shunyata,
Pali: sunnata; tánh Không) – nhờ việc chú tâm, với chánh niệm và
chứng ngộ, vào các pháp hữu vi vô thường, bất toại nguyện ở ngoài tầm kiểm soát
của mình, mà ta nhận ra rằng chúng không phải là "tôi" hay “của
tôi".
·
Chân như (de-bzhin-nyid, Phạn ngữ: tathata,
Pali: tathata) – nhờ chú tâm, với chánh niệm và chứng ngộ, vào các
pháp hữu vi vô thường, bất toại nguyện ngoài tầm kiểm soát của mình, và không
phải là "tôi" hay "của tôi", mà mình nhận ra chúng chỉ là
như vậy. Đó là chân như của chúng.
·
Duyên sinh (de-rkyen-nyid, Phạn ngữ: idampratyayata,
Pali: idappacayata) – nhờ chú tâm, với chánh niệm và chứng ngộ, vào
các pháp hữu vi vô thường, bất toại nguyện, ngoài tầm kiểm soát của mình, không
phải là "tôi" hay "của tôi", chỉ là như thế, mà mình sẽ
nhận ra trạng thái mà chúng có những nghiệp nhân chân thật làm duyên cho sự
sinh khởi của chúng. Cụ thể là ta sẽ nhận ra mối liên hệ giữa các khoen tác
nhân của thập nhị nhân duyên, và các khoen kết quả của các pháp hữu vi trong
luân hồi, đã trổ từ chúng.
Chỉ có chứng ngộ về tánh vô thường của các pháp hữu vi, có
tất cả các đặc điểm này, thì mới là chứng ngộ trọn vẹn về tánh vô thường, nhờ
chánh niệm.
·
Theo truyền thống Tỳ Bà Sa Bộ (Vaibhashika) và Kinh Lượng
Bộ (Sautrantika) của Tiểu thừa, thì mình sẽ chứng ngộ tánh Không trước, rồi đến
tánh vô ngã. Tánh Không đề cập đến một chúng sinh (gang-zag) không có
một hay nhiều bản ngã được tri giác một cách tự túc (rang-rkya
thub-dzin-pa'i rdzas-yod-kyi bdag). Ta sẽ chứng minh điều này bằng tỷ
lượng, dựa vào mãnh lực của luận lý. Vô ngã là kết luận mà mình phải suy ra một
cách hợp lý từ điều này: một chúng sinh thì không có bất cứ điều gì là một bản
ngã được tri giác một cách tự túc.
Theo Phật giáo Nguyên thủy thì việc chứng ngộ trọn vẹn về
tánh vô thường của các pháp hữu vi sẽ dần dần làm tan biến bốn loại tâm sở thủ:
·
Nhờ chú tâm, với chánh niệm và chứng ngộ, vào sự biến hoại
dần dần của chúng, mà mình sẽ chứng ngộ tâm vô tham đối với chúng (‘dod-chags
med-pa, Phạn ngữ: viraga, Pali: viraga).
·
Nhờ chú tâm, với chánh niệm và chứng ngộ, vào tâm vô tham
đối với các pháp hữu vi mà mình kinh nghiệm, mình sẽ chứng ngộ tâm xả (btang-snyoms,
Phạn ngữ: upeksha, Pali: upekkha) đối với chúng. Ta sẽ
chú tâm vào chúng, mà không có tâm tham, sân, si, hay bất cứ phiền não nào
khác.
·
Sau đó, ta sẽ chú tâm vào diệt đế mà mình đã đạt được (‘gog-pa,
Phạn ngữ: nirodha, Pali: nirodha) về tâm tham ái đối
với “tôi”, về những phiền não, về mọi nỗi khổ. Sự chấm dứt của mọi nỗi khổ có
nghĩa là sự chấm dứt của (1) mọi nỗi lo sợ về sinh, lão, bệnh, tử; (2) tất cả
các triệu chứng của nỗi khổ như đau đớn, ưu phiền, buồn bã và tuyệt vọng; (3)
mọi niềm hy vọng hay ham muốn các pháp quyến rũ, hoặc thậm chí các pháp không
quyến rũ; và (4) mọi cách xem bất kỳ uẩn nào trong ngũ uẩn là "tôi"
hay "của tôi". Đây là thành tựu niết bàn (nibanna; Phạn
ngữ: nirvana).
·
Bước cuối cùng là từ bỏ (Pali: patinissagga),
có nghĩa là từ bỏ tất cả những gì mình đã chiếm đoạt như là "của
tôi". Chúng ta sẽ buông bỏ tất cả những gánh nặng đã giam giữ mình trong
hiện hữu luân hồi ('jig-rten-pa, Phạn ngữ: lokita,
Pali: lokiya, hiện hữu thế gian) và có sự hiện hữu hoàn toàn tự do
và giải thoát, vượt thoát luân hồi ('jig-rten-las' das-pa, Phạn
ngữ: lokottara, Pali: lokuttara, hiện hữu xuất thế
gian).