PHẬT HỌC » NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
Tứ Niệm Xứ Trong Đại Thừa
| Sunday, 12.03.2023, 07:30 AM | (281 Xem)
Tứ Niệm Xứ Trong
Đại Thừa
Tư Lương Đạo
Tứ niệm xứ được tu tập từ lần đầu tiên hành giả đạt được
đạo lộ đầu tiên trong ngũ đạo, tức Tư lương đạo (tshogs-lam), cho đến
khi thành tựu trạng thái tịnh hóa của A la hán quả, hay Phật quả. Tuy nhiên,
chúng ta có thể thực hành một bản sao của tứ niệm xứ, trước khi thành tựu Tư
lương đạo.
Với Tư lương đạo, mình sẽ tích tập công đức (bsod-nams-kyi
tshogs) và trí tuệ (ye-shes-kyi tshogs). Hai bồ tư lương này sẽ tạo
dựng giải thoát hay giác ngộ, tùy theo động lực đi kèm với chúng là tâm xả ly (nges-‘byung)
hay cả hai tâm xả ly và bồ đề tâm (byang-sems). Thiền tứ niệm xứ tích
tập bồ trí tuệ, trong khi động lực đi kèm tích tập bồ công đức. Thiền và động
lực củng cố lẫn nhau.
Thanh văn đạo và Duyên giác đạo hành trì tứ niệm xứ, đồng
thời biểu hiện tâm xả ly bất dụng công (rtsol-med nges-‘byung). Một số
nhận thức có thể hiển lộ đồng thời, mỗi nhận thức tập trung vào một đối tượng
khác nhau, và được nhận thức theo một cách khác nhau. Ví dụ, chúng ta có thể
thấy mặt người nào, đồng thời nghe người đó nói, mà không nhất thiết phải chú
tâm một cách đồng đều đến tất cả các nhận thức đang xảy ra trong cùng một lúc.
Định tâm vào một đối tượng trong một nhận thức đơn độc là không có tâm tán
loạn, nhưng điều đó không có nghĩa là định đang xảy ra mà không có những nhận
thức khác cũng đang xảy ra cùng lúc, mà là chỉ không bị chúng làm cho mình phân
tâm.
Tâm xả
ly là quyết tâm thoát khỏi tái sinh bất tự chủ (luân hồi), sẵn sàng từ bỏ nỗi
khổ trong luân hồi và nhân tạo khổ. Đi kèm theo đó là tâm xác tín rằng mình có
thể làm như vậy, rằng cá nhân ta có khả năng làm điều đó, và sẽ tu tập để thực
hiện điều này. Vì vậy, tâm xả ly có một sự hiểu biết cơ bản về Tứ diệu đế. Lòng
quyết tâm thành tựu giải thoát thấu hiểu diệu đế thứ ba và thứ tư: diệt đế và
đạo đế. Tâm sẵn sàng từ bỏ khổ đau và nhân tạo khổ thấu hiểu diệu đế thứ nhất
và thứ hai: khổ đế và tập đế. "Bất dụng công" có nghĩa là tâm xả ly
phát sinh mà không cần phải trưởng dưỡng nó, dựa vào lý luận. Luôn luôn hiển lộ
có nghĩa là không bao giờ đánh mất tâm xác tín và chủ ý của mình.
Bồ tát
đạo tu tập tứ niệm xứ, trong khi có hai nhận thức hiển lộ: tâm xả ly bất dụng
công và bồ đề tâm bất dụng công. Tâm bồ đề chú trọng vào giác ngộ trong tương
lai của mình, và có hai chủ ý đi kèm: để thành tựu tâm giác ngộ ấy, và tạo lợi
lạc cho chúng sinh, nhờ có thành tựu này. Bồ đề tâm có sự hiểu biết về Tứ diệu
đế, giống như tâm xả ly, nhưng là về phương diện giác ngộ và Phật tánh. Bồ đề
tâm bất dụng công không đòi hỏi việc tích tập nó qua những bước như thừa nhận
tất cả chúng sinh đã từng là mẹ của mình, v.v... Luôn luôn hiển lộ có nghĩa là
không bao giờ đánh mất mục tiêu và chủ ý của mình.
Dù tứ niệm xứ thật sự có mặt với tâm xả ly và bồ đề tâm bất
dụng công, nhưng ta có thể bắt đầu với mức độ dụng công (rtsol-bcas) của
chúng, trước khi đạt được Tư lương đạo. Đối với điều này thì phải nỗ lực để
phát khởi và cảm nhận tâm xả ly và bồ đề tâm chân thành, bằng cách dựa vào lý
luận.
Các Loại Tâm Sở Liên Hệ Với Chánh Niệm
Chánh niệm là một tâm sở (sems-byung, nhận thức phụ)
giữ gìn một đối tượng, và ngăn ngừa việc lãng quên, hay đánh mất nó. Nó vận
hành như loại keo tinh thần. Cường độ của sự giữ gìn đối tượng trong tâm trí có
thể khác nhau. Phải không quá chặt chẽ, cũng không quá lỏng lẻo.
Tỉnh giác (shes-bzhin) là tâm sở hay nhận thức phụ
về một đối tượng, là điều phối kiểm chất lượng của việc giữ gìn đối tượng của
chánh niệm. Việc giữ gìn đối tượng có thể quá lỏng lẻo vì tâm trạo cử (rgod-pa,
giao động) hay hôn trầm (bying-ba). Khi tỉnh giác nhận thấy một lỗi lầm
về chất lượng của chánh niệm, thì sẽ khởi động việc phục hồi sự chú ý (chad-cing
jug-pa'i yid-byed) để sửa chữa nó.
Tác ý hay chú ý (yid-la byed-pa) là tâm sở đưa tâm
hành vào một đối tượng cụ thể. Nó có thể sử dụng tâm hành một cách cần mẫn,
phục hồi, không gián đoạn, hay tự phát. Nó cũng có thể chú ý hoặc xem xét đối
tượng theo một cách nào đó – một là phù hợp (tshul-bcas), hai là không
phù hợp (tshul-min) với bản tánh thật sự của nó.
Tứ niệm xứ được hành trì, để chấn chỉnh bốn cách chú ý đến
ngũ uẩn một cách không phù hợp (phung-po lnga).
Với chánh niệm đúng đắn, chúng ta sẽ quán chiếu về:
·
Thân - bất tịnh, thay vì thanh tịnh
·
Thọ – là khổ, thay vì hạnh phúc
·
Tâm – vô thường, thay vì thường hằng
·
Vạn pháp (nói về các tâm sở và ngũ uẩn nói chung) – vô ngã
(gang-zag-gi bdag-med), thay vì hữu ngã.
Pháp Tu Dự Bị Của Định Tâm
Niệm xứ là một pháp tu tuệ (vipashyana). Định nghĩa hành
trì của vipashyana đòi hỏi trước tiên thì hành giả phải đạt được shamatha (zhi-gnas,
tâm định tĩnh, tĩnh trụ); nếu không thì không thể chú tâm một cách đúng đắn.
Nếu như tu tuệ mà không có định, thì đó là một bản sao của pháp tu chân thật.
Là một trạng thái định tĩnh, ngoài định tâm hoàn hảo ra, định (shamatha) còn có
sự phấn chấn của thân tâm và khinh an (shin-sbyang). Điều này dựa vào
khả năng tập trung vào bất cứ điều gì trong bao lâu, tùy theo ý muốn, mà không
có sự đề kháng của thân tâm, hay đau đớn. Tuệ bổ sung thêm vào đó cảm giác phấn
chấn thứ hai về tính sung mãn, dựa trên khả năng nhận thức và thấu hiểu bất cứ
điều gì.
Chúng ta có thể thành tựu trạng thái định tĩnh của shamatha
và trạng thái nhận thức đặc biệt của vipashyana, nhờ việc chú tâm vào nhiều
loại đối tượng. Việc đạt được định và tuệ không đòi hỏi hành giả phải thành tựu
một đạo lộ trước đó, và thậm chí không cần phải tuân theo phương pháp của nhà
Phật. Các trường phái ngoại đạo Ấn Độ cũng dạy các phương pháp để thành tựu
định và tuệ. Tuy nhiên, các hành giả nhà Phật chỉ đạt được định, chú trọng vào 16
thuộc tính của Tứ diệu đế, với sự thành tựu của một cấp độ cao của Tư lương
đạo. Chúng ta chỉ thành tựu định và tuệ hợp nhất tương tự như vậy, chú trọng
vào việc thành tựu đạo lộ thứ hai của ngũ đạo, tức Gia hành đạo (sbyor-lam).
Hai chướng ngại chính để thành tựu định tâm là tham ái (‘dod-chags)
và vọng tưởng (rnam-rtog). Chúng là nguyên nhân chính, tạo ra tâm trạo
cử (rgod-pa) đối với đối tượng mà mình yêu thích. Để chuẩn bị cho pháp
thiền niệm xứ, chúng ta sẽ thiền quán về tánh bất tịnh của thân, để đối trị dục
vọng, và hành thiền sổ tức (thiền thở), để đối trị vọng tưởng.
·
Tương tự như vậy, tứ niệm xứ của Phật giáo Nguyên thủy
(Theravada) giảng dạy về thành tựu tam muội (ting-nge-‘dzin, Phạn
ngữ: samadhi, Pali: samadhi, đại định) nhờ buông bỏ tâm
trạo cử và vọng tưởng. Trạo cử (rgod-pa, Phạn ngữ: auddhatya,
Pali: uddhacca) là cùng một ngôn từ kỹ thuật mà Đại thừa định nghĩa
như trạo cử.
·
Trong chương thứ Tám của Nhập Bồ Tát Hạnh (Engaging
in Bodhisattva Behavior), liên quan đến thiền định ba la mật (bsam-gtan
phar-byin, Phạn ngữ: dhyanaparamita), ngài Tịch Thiên
(Shantideva) cũng nhấn mạnh việc đoạn trừ dục vọng, tham ái và vọng tưởng về
các đối tượng, đặc biệt là cơ thể, để thành tựu định tâm hoàn hảo. Điều này
chuẩn bị cho chương thứ Chín về trí tuệ ba la mật (shes-phyin, Phạn
ngữ: prajnaparamita), mà trong đó, ngài mô tả việc phát triển nó
một phần nào, nhờ tứ niệm xứ.
Quán Thân Bất Tịnh
Vì ham muốn tình dục là hình thức mạnh mẽ nhất của dục vọng
và tham ái đối với hầu hết mọi người, nên đối tượng chính để đối trị tâm trạo
cử là tánh bất tịnh của thân. Điểm chính là phát tâm ghê sợ, để đối trị dục
vọng và tham ái. Điều này không phủ nhận chân lý quy ước (kun -rdzob bden-pa,
chân lý tương đối) rằng đối với một tâm thức hợp lệ để nhận thức chân lý quy ước
thì thân này có thể hấp dẫn, theo một quy ước xã hội hay cá nhân nào đó. Nhưng
cũng phải xem thân này bằng một tâm thức có thể thấy chân lý tối hậu về nó một
cách xác thực.
Các pháp thiền tiêu chuẩn thì cực kỳ mạnh mẽ. Một số hành
giả có thể tiếp cận chúng với tâm ghê sợ đã có sẵn về thân thể, dựa vào giáo lý
của những tôn giáo khác, hay yếu tố tâm lý. Đối với họ thì sự ghê tởm và ác cảm
về cơ thể là phiền não (nyon-mongs). Những người như vậy thì nên rất cẩn
thận, khi muốn hành trì pháp tu này. Nếu như việc thiền quán về tánh bất tịnh
của thân chỉ có tác dụng gia tăng tâm sợ hãi và ác cảm, thì pháp tu phải được
giảm bớt, và thiền quán nhiều hơn về kiếp người quý báu. Phải nhớ rằng mục đích
của việc chọn lựa một đối tượng ghê gớm để thiền định, để thành tựu định tâm là
để đối trị tâm tán loạn, bắt nguồn từ dục vọng và tham ái. Đối với những người
như vậy, thì việc chọn lựa bất cứ loại đối tượng nào khác, những điều sẽ tạo ra
dục vọng và tham ái nhiều nhất, chẳng hạn như thực phẩm hay thuốc lá, có thể
hữu hiệu hơn.
Pháp thiền chú trọng vào dục vọng và tham ái đối với bốn
khía cạnh của cơ thể: màu sắc, hình dáng của nó, xúc giác khi chạm vào nó, và
có được lạc thú hay sử dụng được nó. Trước tiên là chú trọng vào bốn khía cạnh
của thân thể của một người mà mình thấy hấp dẫn. Sau đó, áp dụng cùng một sự
chú tâm vào thân thể của mình. Ta sẽ bắt đầu mỗi giai đoạn bằng cách quán chiếu
rằng một ngày nào đó, người khác hay mình sẽ qua đời. Cho dù thân thể của anh
ấy, cô ấy hay của mình có xinh đẹp ra sao khi còn sống, nhưng khi trở thành xác
chết thì nó sẽ xấu xí và đáng sợ. Để đối trị tâm tham ái với:
·
Màu sắc đẹp đẽ của cơ thể người nào đó – thì hãy nghĩ cách
mà một xác chết thối rữa sẽ trở thành màu xanh da trời đậm, rồi thành màu đen.
Ngay cả khi còn sống, màu sắc của cơ thể cũng có thể trở thành xấu xí, khi có
màu đen và xanh dương vì nhiều vết thương, hoặc có màu đỏ hoặc đen, khi bị
phỏng nặng. Hãy quán tưởng cơ thể nhìn như vậy, và sử dụng nó như đối tượng để
định tâm, chú ý đến nó theo cách này, với chất keo tinh thần của chánh niệm.
·
Tướng tá đẹp đẽ của người nào đó - hãy tưởng tượng nó
chương lên như một xác chết, có giòi và giun rúc rỉa nó, và những mảnh thịt
thối rữa. Ngay cả khi còn sống thì hình dáng của cơ thể vẫn có thể thay đổi vì
bệnh tật, tăng hoặc giảm cân, hay lão hóa.
·
Xúc giác khi đụng chạm và vuốt ve cơ thể của người nào -
hãy tưởng tượng nó như một xác chết bị côn trùng rút rỉa, hay thịt của nó
bị phân hủy và rơi ra. Ngay cả ý tưởng chạm vào nó, đừng nói gì đến việc ôm ấp
nó, là điều đáng sợ. Ngay cả khi còn sống, khi da của người nào bị nhiều vết
loét, bị chứng phát ban truyền nhiễm vì cây thường xuân có độc, hay thối rữa vì
bệnh cùi, thì mình cũng không còn ham muốn để chạm vào nó.
·
Có được lạc thú, hay sử dụng thân thể của người nào như đối
tượng tình dục, hay công cụ làm việc để bóc lột – thì hãy nghĩ về nó như một
xác chết. Khi đó thì nó không còn khả năng làm bất cứ điều gì cho mình, và liệu
ta có muốn giao cấu với một xác chết thối rữa hay không?
·
Tất cả bốn khía cạnh - kết luận bằng cách thiền quán về cơ
thể của người nào như bộ xương mà nó sẽ trở thành, sau khi chết. Rồi lặp lại
năm bước, liên quan đến cơ thể của mình.
Là một pháp đối trị tâm hôn trầm chung chung, và một sự trợ
giúp thêm, để giảm thiểu tâm luyến ái với thân mình, và giảm thiểu việc tìm cầu
sự thỏa mãn nhục dục vô tận, chúng ta sẽ hành trì thêm ba bài thiền quán về
thân mình, dưới dạng bộ xương.
·
Bắt đầu từ khoảng giữa hai chân mày của mình, ta sẽ tưởng
tượng từng mảnh thịt của mình rơi ra khỏi bộ xương. Khi nguyên bộ xương của
mình đã lộ ra, thì hãy tưởng tượng cả căn phòng, bên ngoài ngôi nhà của mình,
rồi cả thế giới đều tràn đầy xương, ngày càng tràn đầy hơn nữa. Sau đó, ta sẽ
thu hồi các mảnh xương lại từng bước một, cho đến khi chỉ còn lại cơ thể của
mình như bộ xương, và chú tâm nhất điểm vào bộ xương của mình.
·
Noi theo quy trình tương tự, nhưng cuối cùng, hãy hòa tan
bộ xương của mình từ dưới lên trên, cho đến khi chỉ còn lại nửa phần trên của
hộp sọ. Rồi hãy chú tâm vào đó.
·
Lặp lại quy trình một lần nữa, nhưng tiếp tục sự phân hóa
hơn nữa, cho đến khi chỉ còn lại một mảnh xương nhỏ bé ở giữa hai chân mày của
mình, rồi chú tâm vào đó. Ba pháp thiền này không đoạn trừ tâm tham ái, nhưng
sẽ giảm thiểu nó.
Quán Sổ Tức, Để Đối Trị Vọng Tưởng
·
Pháp sổ tức - để giảm thiểu, rồi loại bỏ những vọng tưởng
phóng dật thì trước tiên, hãy đếm hơi thở. Để thư giãn thân tâm, ta sẽ đếm chu
kỳ thở ra và thở vào mười lần, sau đó lặp lại chu kỳ này. Nếu như mỗi lần mình
đếm nhiều hơn mười lần, thì tâm có thể quá căng thẳng, khi cố ghi nhớ con số.
Nếu đếm ít hơn mười lần, thì có nguy cơ tâm quá lơi lỏng, vì mình không chú ý
đến con số. Điều quan trọng là không lẫn lộn với việc đếm hơi thở ra trước, rồi
đến hơi thở vào như một chu kỳ. Điều này đòi hỏi chánh niệm, đó là điểm chánh.
Như phần tiếp theo của bước này, trong khi thở thì mình sẽ nghĩ, "Bây giờ
tôi sắp thở ra; bây giờ tôi đang thở ra; bây giờ tôi đã thở ra xong; bây giờ
tôi sắp thở vào; bây giờ tôi đang thở vào; bây giờ tôi đã thở vào xong.”; và
sau đó thì đếm - một. Nếu như chú tâm theo dõi tất cả những chi tiết này, thì
những tư tưởng ngoại lai khác sẽ biến mất.
·
Theo dõi hơi thở - thở chậm, nhưng không đếm số. Khi thở
ra, hãy tưởng tượng hơi thở đi từ lòng bàn chân lên đến đùi, đến rốn, đến trái
tim, đến cổ họng, và ra khỏi lỗ mũi một khoảng cách ngắn. Khi thở vào, hãy
tưởng tượng hơi thở quay trở lại vào trong lỗ mũi và đi xuống cổ họng, đến trái
tim, đến rốn, đến đùi và lòng bàn chân. Sau đó, lặp lại quy trình này.
·
Đặt để hơi thở – hãy thở bình thường, và không chú tâm vào
việc thở ra và thở vào nữa. Thay vì vậy, thì hãy chú tâm vào dòng hơi thở bên
trong cơ thể, như thể nó giống như một sợi chỉ đi từ lỗ mũi đến lòng bàn chân.
Hãy quán sát cảm giác mà hơi thở tạo ra dọc theo sợi chỉ - nóng, lạnh, thoải
mái, không thoải mái, vân vân. Hãy phân tích hơi thở khi mình thở, xem làm thế
nào mà hơi thở không chỉ là không khí. Nó mang bản tánh của tứ đại, đất, nước,
lửa và gió (bụi rắn chắc, hơi ẩm lỏng, hơi nóng nhiệt độ, và gió) và bốn yếu tố
phát sinh của hình dạng, mùi hương, vị nếm, và xúc giác. Hãy xem xét thêm về
cách mà các loại tâm vương và tâm sở của mình phụ thuộc vào các yếu tố này, và
cách mà chúng đều tương quan và tác động lẫn nhau.
·
Chuyển hóa hơi thở - ngay cả sau khi mình đã lắng dịu tâm
trí, bằng cách chấm dứt mọi vọng tưởng phóng dật và thành tựu định tâm, thì ta
có thể tu tập thêm với hơi thở, khi dần dần phát triển các đạo lộ trong ngũ
đạo. Dựa vào những điều mình đã phân tích, hãy khảo sát Tứ diệu đế trong bối
cảnh của hơi thở, và sự tương quan giữa nó và tâm thức của mình. Chúng ta sẽ
khảo sát mối quan hệ này về mặt khổ đế của sự tái sinh, tập đế, diệt đế
và đạo đế, dẫn đến diệt đế ấy. Dựa vào cách này, mình sẽ tiến tu bằng cách tích
tập và áp dụng các đường tu.
·
Tịnh hóa trong bối cảnh hơi thở - tiếp tục bước cuối cùng
một cách vô niệm, với Kiến đạo (mthong-lam) và Thiền định đạo (sgom-lam).
Chi Tiết Về Tứ Niệm Xứ
Đối tượng của chánh niệm bao gồm tất cả các pháp vô thường
và thường hằng. Các pháp vô thường có thể được bao gồm trong ngũ uẩn của mình.
·
Chánh niệm về thân đề cập đến sắc uẩn. Chúng ta sẽ tập
trung vào ba loại thân: bên trong (cơ thể của mình); bên ngoài (các vật thể
quanh mình); cả bên trong và bên ngoài (cơ thể của người khác).
·
Cảm thọ đề cập đến thọ uẩn: hạnh phúc và lạc thú, bất hạnh
và đau đớn, và vô ký thọ.
·
Tâm đề cập đến thức uẩn: sáu loại tâm vương (nhìn, nghe,
ngửi, nếm, xúc chạm, và suy nghĩ).
·
Vạn pháp bao gồm tưởng uẩn (nhận thức) và các hành khác,
cũng như các pháp thường hằng.
Việc cần phải có bốn yếu tố là để giúp mình khắc phục những
khía cạnh bám chấp vào một bản ngã bất khả của "tôi" như một hữu tình
(gang-zag-gi bdag-'dzin). Chúng ta tưởng tượng sai lầm rằng
"tôi" tồn tại như một cái "tôi" thường hằng, nhất thể, độc
lập với các uẩn của mình. Chúng ta lầm lẫn rằng:
·
Thân ta - là nền tảng hay ngôi nhà của một cái
"tôi" độc lập như vậy; và mình có cảm giác như vậy. Chúng ta cảm
thấy, "Tôi ở đây, bên trong cơ thể của mình.".
·
Cảm thọ của mình - là những gì mà "tôi" hưởng thụ
và trải nghiệm, như trong "Tôi thấy hạnh phúc. Tôi thấy đau khổ. Tôi cảm
thấy trung hòa.”.
·
Tâm ta – thật ra chính là “tôi”.
·
Các pháp, đặc biệt là cảm xúc và thái độ của mình - như
những gì đem lại cho "mình" nhân cách hay bản sắc thật sự của tôi.
"Tôi là người có vấn đề về tâm sân hận hay tham ái", "Tôi là
người có trí thông minh hay lòng từ cao cả.".
Trường phái Cụ Duyên của Gelug (Gelug Prasangika) giải
thích bốn quan niệm nhầm lẫn này về mặt tưởng tượng một cách sai lầm rằng
"tôi" tồn tại như một cái "tôi" có thể tìm thấy, được nhận
biết một cách tự túc.