PHẬT HỌC » NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
GIỚI HỌC
| Thursday, 06.04.2023, 04:07 PM | (322 Xem)
GIỚI HỌC
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ.
Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến
đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát mà không phải đưa đến các phước báo
sanh thiên.
Ý nghĩa của Giới
Thông thường Giới được hiểu là ngăn ngừa điều quấy,
dứt dừng điều ác (“phòng phi chỉ ác”), hoặc ngưng điều ác và làm điều thiện
(“chỉ ác, tác thiện”).
Trong Bát Chánh đạo, Giới là giới uẩn gồm có
chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Ở đây chỉ sự ngăn ngừa các hành động lỗi
lầm của thân và khẩu. Khi các hành động lỗi lầm không được làm thì tránh được
nhiều sự tổn hại cho những người khác. Đây đã nói lên ý nghĩa “tác thiện” của
giới.
Chữ Giới trong Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Sk:
Pràtimoksa, Pàli: Patimokkha) có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát,
Tùy thân giải thoát. Biệt giải thoát là giải thoát từng phần: giữ giới nhiều
thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoát là giải
thoát tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người hành.
Từ điển của Rhys Davids cắt nghĩa Giới (Silà) có
gốc từ ngữ căn Sìl. Ngữ căn Sìl có hai nghĩa: Upadhàranà (luân lý, đạo đức của
Phật giáo, cách cư xử, tư cách đạo đức) và Samàdhi (Định, Thiền).
Từ Patimokkha thì có nghĩa là, theo cách phân
tích từ ngữ, trói buộc các hành động, giữ gìn, thúc liễm các hành động của thân
và khẩu không để cho rơi vào đường ác, sai lầm, tổn hại mình và người. Ví như
buộc mồm trâu để ngăn nó ăn lúa mạ.
Giới trong nghĩa của ngày trai giới (Pàli:
Uposatha, Sk: Upavasatha), Hán dịch là Bố-sa-tha, có nghĩa là tịnh trú, trưởng
dưỡng, trưởng tịnh và thiện túc.
Tăng Chi (III-A) định nghĩa ngày trai giới là
ngày thực hành hạnh sống của vị A-la-hán (chỉ giữ tám giới).
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Thế Tôn dạy: “Giới
là nền tảng của bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Cần, năm Lực, bảy
Bồ-đề phần và tám Thánh đạo phần. Ví như là đất là nền tảng, không có nó thì
các loại động vật không thể di chuyển, cũng thế, không có Giới thì ba mươi bảy
phẩm trợ đạo không thể được tu tập viên mãn.”
Qua các định nghĩa trên, Giới giúp cho hành giả
đạt được hai mục tiêu: không làm các điều ác (chư ác mạc tác), làm các việc
lành (chúng thiện phụng hành). Mục tiêu thứ ba của Phật giáo là giữ tâm ý thanh
tịnh, loại bỏ hết các lậu hoặc (tự tịnh kỳ ý) và cũng là mục tiêu cứu cánh, cần
phải nhờ đến định uẩn và tuệ uẩn.
Thời gian và lý
do thiết lập Giới
Theo tài liệu sử của Edward J. Thomas trong cuốn
“Đời sống của đức Phật” (The Life of Buddha), Giáo hội Ni được thành lập từ năm
thứ năm sau ngày Thế Tôn thành Đạo. Do đó, qua năm thứ sáu một số giới luật đã
bắt đầu hình thành, và hình thành tương đối rõ là vào năm thứ mười sau ngày
Thành Đạo. Luật tạng thì ghi mãi đến năm thứ mười ba sau ngày Thành Đạo, giới
luật mới hẵn nhiên được hình thành, do Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) đặc trách. Bấy
giờ Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha) ra đời.
Vì sao Giới bổn không được thiết lập ngay từ năm
đầu của Giáo hội? Theo truyền thống, chư Thế Tôn chỉ thiết lập các giới điều,
khi nào thấy cần thiết, khi nào đầy đủ nhân duyên. Khi có một hiện tượng vi phạm
gây nên một ảnh hưởng không tốt cho sinh hoạt của Tăng chúng thì Thế Tôn mới kiết
giới, thành lập thêm một giới điều để ngăn ngừa hiện tượng xấu ấy xảy ra về
sau. Giới bổn cũng thế, trong những năm đầu, chư Tỷ-kheo sinh hoạt thanh tịnh
trong khuôn khổ của Chánh pháp nên Thế Tôn không đề cập đến Giới bổn, mà chỉ
trình bày Giới dưới những hình thức đơn giản, và tổng quát nhất là hình thức hộ
trì các căn, hoặc dưới hình thức chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng của Bát
Chánh đạo. Mãi đến năm thứ mười ba sau ngày thành Đạo, bấy giờ có nhiều hiện tượng
sinh hoạt đi ra ngoài đời sống phạm hạnh, Thế Tôn mới thành lập giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa.
“Một
hôm, Tôn giả Upàli bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, do những mục đích nào các học
pháp được thiết lập cho các đệ tử của Như Lai và Giới bổn Patimokkha được tuyên
đọc?” Thế Tôn dạy, do mười mục đích mà các học pháp được thiết lập và Giới bổn
Pàtimokkha được tuyên đọc:
– Để
Tăng chúng được cực thịnh,
– Để
Tăng chúng được an ổn,
– Để chặn đứng các người cứng đầu,
– Để
các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn,
– Để
chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
– Để
chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai,
– Để
đem lại tịnh tín cho những người không tin,
– Để
làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin,
– Để
diệu pháp được tồn tại,
– Để
luật được chấp nhận. (Tăng Chi Bộ Kinh 3B, tr. 73)”
Qua mười
mục đích trên, Giới bổn chỉ giới hạn ở hai phần “chỉ ác” và “tác thiện” trong ba
phần (chỉ ác, tác thiện và tự tịnh kỳ ý) mà Phật giáo nhắm đến. Như thế, Giới
qua Nikàya, chỉ gồm vào các giới của tại gia và xuất gia. Đây là nội dung của
Nhiếp luật nghi giới hay gọi là Biệt giải thoát giới. Nội dung các loại Giới Có
nhiều hình thức phân loại giới. Cách phân loại thứ nhất, giới mang ý nghĩa rộng
rãi của “Đại-thừa”. Ở đây có ba loại:
– Loại
một gọi là Nhiếp luật nghi giới, gồm có các giới của tại gia và xuất gia: ngũ
giới, bát quan trai giới, thập thiện giới và cụ túc giới.
– Loại
hai gọi là Nhiếp thiện pháp giới, lấy việc thực hành tất cả việc thiện làm giới.
– Loại
ba gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh
làm giới. Cách phân loại thứ hai cũng mang ý nghĩa rất rộng rãi của Đại thừa, gồm
có:
– Biệt
giải thoát giới, đấy là nội dung của Nhiếp luật nghi giới.
– Định
cộng giới, là giải thoát do định sinh, lấy định làm giới. Do tu Thiền định mà
thân tâm thanh tịnh, giới thể được cụ túc.
– Đạo
cộng giới, là giải thoát do tuệ sinh, lấy tuệ làm giới. Do tu vô lậu nghiệp mà
được trí vô lậu, giới thể được viên mãn.
Qua sự
phân loại giới trên, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới là thuộc
Đại thừa giới; biệt giải thoát giới và định cộng giới thì được gọi là hữu lậu
giới; đạo cộng giới được gọi là vô lậu giới.
Luận Câu
Xá thì gọi biệt giải thoát luật nghi (hay biệt giải thoát giới) là Dục giới triền
giới; gọi định sanh luật nghi (hay định cộng giới) là Sắc giới triền giới; và gọi
đạo sanh luật nghi (hay đạo cộng giới) là vô lậu giới.
Trong giới
hạn của phần giới được trình bày ở đây, chúng ta không đi vào các chi tiết của
giới, cũng không đi vào các giới luật xuất gia, mà chỉ trình bày những nét cơ bản
của Giới học.
Tính
chất và nền tảng của Giới
Cứ theo
từng giới cấm một, cũng như toàn thể Giới bổn, đặc biệt là mười giới căn bản
chung cho cả tại gia và xuất gia liên hệ đến thân, khẩu và ý, chúng ta có thể
tìm ra tính chất của giới và nền tảng trên đó Giới được thiết lập.
Ở đây,
đơn cử giới “bất sát” (không được sát sanh). Căn bản của giới này là không giết
người, thứ đến là không giết hại các loài chúng sinh khác. Về phần người giữ giới,
khi giữ giới này thì ngăn trừ được sân tâm, nuôi dưỡng được từ tâm, khiến cho
tâm được an tịnh, an lạc ngay trong hiện tại, từ đây, người giữ giới không tạo
các nghiệp ác để phải chịu thọ quả khổ đau trong tương lai. Về phần các người
khác và các chúng sanh khác, khi giới bất sát được giữ gìn thì đời sống của họ
được thêm phần bảo đảm an toàn, an ổn, khỏi phải gánh chịu các hậu quả do lòng
sân hận, ác hại của người khác gây ra trong hiện tại.
Đối với
giới “bất dâm”, “bất đạo”, người giữ giới ngăn được lòng tham và không tạo thêm
ác nghiệp gây ra khổ đau trong hiện tại và tương lai, tha nhân và các loài
chúng sanh khác thì tránh được các tổn hại và sống an ổn.
Kết quả
việc giữ giới như thế tựu trung tính chất của nó là đem lại an vui cho mình và
cho người, điều hòa được sinh hoạt của tập thể, tạo nên lòng tin cho kẻ khác.
Đem lại lợi ích an lạc và giải thoát cho tự thân người giữ giới, đấy là trí tuệ;
đem lại lợi ích an lạc cho tha nhân và các loài khác, đấy là từ bi. Trí tuệ và
từ bi là nền tảng trên đó Giới được thiết lập.
Hướng đi
của giới là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giới giúp đỡ người
tu tập thấy nhẹ nhàng thân và tâm, an lạc trong từng bước đi. Giới đúng nghĩa của
nó, không có ý nghĩa nào trói buộc hay tù túng cả. Ngoài một số hành động, nếu
làm, hẳn nhiên phá đổ hạnh thanh tịnh nên tuyệt đối bị cấm chỉ, các sinh hoạt
còn lại của người tu tập giải thoát đều được tùy duyên mà châm chước, khai mở.
Ngay cả trong các trường hợp bị cấm chỉ, nếu vì “nghịch duyên” mà bị rơi vào
(như là “các tai nạn” liên hệ giới xảy đến), ngoài sự tác ý của hành giả, thì sẽ
không phạm, nếu người bị nạn không khởi lên tham tâm hay sân tâm tùy thuận theo
sự kiện đang xảy ra (ví dụ bị cưỡng hiếp, nếu không khởi lên lạc tâm thì không
phạm).
Về các
giới trọng thì tính chất khai mở của chúng còn có phần hạn chế, nhưng với các
giới nhẹ thì tánh chất của chúng rất là cởi mở, linh động, phóng khoáng.
Luật tạng
ghi rằng một lần các Phật tử và ngoại đạo chê trách các vị Tỳ-kheo đứng mà tiểu
tiện, cho rằng cung cách đó là thô tháo, thiếu lịch nhã. Khi sự việc này được
trình lên Thế Tôn, Thế Tôn bèn dạy: “Vậy thì từ nay các Tỷ-kheo, ngồi mà tiểu
tiện”. Nhưng ở một quốc độ khác, khi chư Tỷ-kheo ngồi tiểu tiện thì lại bị chê
rằng các đệ tử của Thế Tôn toàn là nữ giới. Khi sự việc này trình lên Thế Tôn,
Thế Tôn lại dạy: “Nếu vậy, thì đứng mà tiểu vậy.” Thế có nghĩa là tùy theo quốc
độ, tùy theo văn hóa mà thích ứng. Đấy là một trường hợp điển hình nói lên tính
chất linh động và cởi mở của Giới.
Như vậy
giới trong giáo lý Phật giáo, không mang tính cố chấp, cứng nhắc như là giới điều
(dogma) của các Tôn giáo khác, mà mang nghĩa tự nguyện, thiết thực đem lại lợi
ích cho mình và người, nhằm nuôi dưỡng và phát triển tín tâm của mình và người
Vị
trí của Giới trong hệ thống Giáo lý Phật giáo
Trường Bộ
Kinh và Trường A-hàm đề cập đến Giới nhiều hơn là các bộ Kinh còn lại. Điển
hình là Kinh Phạm Võng (của Nikàya) và Kinh Phạm Động (của Trường A-hàm) xác định
rõ vị trí của Giới trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Trong hai kinh này, Thế
Tôn xác nhận chỉ có các kẻ phàm phu mới ca ngợi, tán thán Như Lai về Giới đức.
Lời ca ngợi, tán thán Như Lai như thật chân chánh là ca ngợi, tán thán về Tuệ đức:
— “Như Lai đã chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết các pháp sâu kín, khó thấy,
khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt khỏi tầm luận lý suông, rất tế nhị, chỉ có
các bậc trí tuệ mới nhận hiểu.”
Qua lời
xác nhận ấy của Thế Tôn, ta thấy Giới chỉ mới là bước đi căn bản (Giới, Định,
Tuệ) của Phật giáo. Thực sự nói rõ hơn, Giới chỉ là bước đầu của năm bước đi:
Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến (tri kiến biết rằng đã giải
thoát).
Giới là
bước đi đầu, nhưng là bước đi nền tảng. Nếu hành giả rơi vào giới cấm thủ (giữ
giới sai lạc của ngoại đạo), hỏng từ bước đi đầu này, thì không thể nào thực hiện
được bốn bước đi kế tiếp.
Đấy là ý
nghĩa của từ ngữ Giới trong Nikàya và A-hàm.
Qua đến
Bắc tạng (Đại thừa) thì từ Giới mang ý nghĩa rộng rãi bao la hơn: Giới bao gồm
cả Định và Tuệ. Biệt giải thoát giới (hay Nhiếp luật nghi giới) và Định cộng giới
là thuộc hữu lậu giới, Đạo cộng giới thuộc về Tuệ giải thoát hay vô lậu giới.
Đại Tạng
Bát-nhã thì xếp Giới vào một trong sáu chi phần tu tập của Bồ-tát gọi là “Lục
Ba-la[1]mật”.
Giới Ba-la-mật thì đã đồng nghĩa với đoạn trừ hết chấp thủ tướng, hay đồng
nghĩa với đoạn trừ hết lậu hoặc, đây là Tuệ giải thoát.
Tuy có
cái nhìn khác nhau trong sự phân loại và trình bày về Giới học của Nam tạng và
Bắc tạng, nhưng nếu chúng ta nhình kỹ vào nội dung thì thấy rõ không có sự mâu
thuẩn thực sự nào cả. Nam tạng thì trình bày giới hạn Giới ở mức độ như đã
trình bày, qua giới hạn đó thì Nam tạng bàn đến phần Định và Tuệ. Sự phân ranh
giới hạn này có tính cách hình thức và quy ước hơn là nội dung tâm thức của người
hành trì giới. Ở Bắc tạng, thì Định và Tuệ có thể cùng được tu chung với Giới; ở
người hành trì Giới, đạt đến giới Ba-la-mật hẳn là đòi hỏi người hành trì Giới
phải có đầy đủ Định và Tuệ. Thiếu Định và Tuệ thì hành giả không thể nào đạt được
kết quả hành giới mà ly hết thảy các tướng chấp thủ.
Thực sự,
cả Nam tạng lẫn Bắc tạng đều xác nhận không thể tách rời riêng rẽ Giới, Định,
Tuệ. Nhìn vào tám chi phần trong Bát Chánh đạo thì thấy hiển nhiên điều đó. Giới
(hay chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) không thể gọi là Chánh giới, nếu
không có mặt của Tuệ (chánh kiến và chánh tư duy). Thực hiện Giới cũng chính là
thực hiện Tuệ, thực hiện Tuệ cũng chính là thực hiện viên mãn Giới.
Hiểu
ý nghĩa đúng đắn của Giới và phạm Giới
Vấn đề
phạm giới đưa đến kết quả nặng, nhẹ khác nhau giữa những người tu tập có tâm lý
giải thoát khác nhau, dù họ phạm cùng một lỗi. Hậu quả họ đón nhận cũng khác
nhau trong hiện tại và tương lai.
Phẩm Hạt
Muối (Tăng Chi Bộ Kinh I) ghi sự cắt nghĩa rõ ràng của Thế Tôn về trường hợp
này. Một người dân đen đánh trộm một con dê của một nhà giàu, có thế lực có thể
bị đánh đập đổ máu ngay tại chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình
bắt trộm một con dê của nhà giàu, có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng
không bị tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông lớn
thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu để nắm muối ấy vào một ghè nước thì độ mặn
lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội, với người tâm tư bủn xỉn, không tu tập
Giới, Định, Tuệ thì kết quả có thể đi vào địa ngục; nhưng với người có tu tập
Giới, Định, Tuệ, có từ tâm rộng rãi thì xem qua như kết quả không có (triệt
tiêu).
Kinh Đại
Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh III) trình bày, một người có chánh kiến và
chánh tín trước lúc chết có thể sang Thiên giới dù trong đời sống đã tạo nên mười
ác nghiệp; trái lại một người có tà kiến và đầy nghi tâm trước khi chết có thể
đi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, dù sanh tiền thường tạo mười thiện nghiệp.
Sự có mặt của chánh kiến của phàm phu đã có ảnh hưởng lớn như thế trong việc
thác sinh, huống nữa là sự có mặt của Tuệ giác.
Thường về
mặt giới tướng, sự phạm tội được buộc tội nếu hội đủ ba điều kiện:
– Sửa
soạn để phạm.
–
Hành động cụ thể về sự vi phạm.
– Cố
ý.
Trong ba
điều kiện để buộc tội ấy, hai điều kiện là thuộc phần tác ý của tâm. Thành thử
vấn đề của giới đặt ra một cách rõ ràng là để giúp cho con người giữ gìn tâm thức
được trong sạch, thanh tịnh, lương thiện. Phạm giới có nghĩa là xác định tâm thức
bị hoen ố. Như thế, vấn đề giữ giới thực ra là vấn đề giữ cho ý thức thanh tịnh,
căn bản là theo dõi ý và chế ngự ý. Với ai mà tu giữ ý thức được thanh tịnh,
giác tĩnh thì hẳn nhiên người ấy có giới thể được tròn đầy.
Giới dù
cho có thiết lập nên nhiều giới điều, căn bản vẫn là có gốc ý thức. Giữ niệm được
thanh tịnh thì giới thanh tịnh. Có thể phát biểu rằng chỉ có một giới căn bản
là ý giới: rời xa các ác pháp, bất thiện pháp, rời xa tham ái, sân hận và chấp
thủ.
Giới có
công năng rõ ràng, qua phần trình bày ở trên, là đem lại an lạc và hạnh phúc
lâu dài cho mình và cho người trong hiện tại và tương lai. Giữ giới là giữ gìn
nguồn an lạc hạnh phúc ấy; phạm giới là gây tổn hại đến nguồn an lạc, hạnh phúc
ấy.
Giới,
như thế không phải dành riêng cho hàng xuất gia hay chỉ dành riêng cho hàng Phật
tử tại gia, cũng không phải chỉ dành riêng cho những người lớn tuổi mà là chung
cho tất cả mọi người trong mọi lứa tuổi, cho những ai muốn sống đem lại an lạc,
hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và trong cả tương lai.
Nếu hạnh
phúc là đối tượng mà nhân loại mãi đi tìm, thì hẳn đúng Giới là những gì mà
nhân loại cần nắm giữ trên đường đi đến hạnh phúc ấy. Đã đến lúc con người cần
loại bỏ hết thảy ngộ nhận về Giới của giáo lý Phật giáo để tiến lại gần hơn với
Giới và nắm giữ Giới thân ái như nắm giữ hạnh phúc của mình.
(Trích “Phật Học Khái Luận”, Sài Gòn, 1993)