PHẬT HỌC » NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
Con đường độc nhất đưa đến thành tựu Thánh Đạo, chứng ngộ Niết bàn
| Friday, 21.04.2023, 02:37 PM | (285 Xem)
Con đường độc nhất đưa đến thành tựu Thánh Đạo,
chứng ngộ Niết bàn
Cách đây gần
3.000 năm, đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni do thiền quán suốt 49 ngày đêm dưới
cội cây Bồ đề đã thành tựu quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Trong hệ thống
giáo pháp đồ sộ của Phật giáo, chúng ta không thể không biết đến thiền Tứ Niệm
Xứ.
Thiền Tứ Niệm
Xứ là pháp môn đặc biệt của đạo Phật, chưa từng có trong bất cứ tôn giáo nào
trước đó.
Trước khi con
đường thiền Tứ Niệm Xứ được tìm ra, thái tử Tất Đạt Đa đã thực hành tất cả các
phương pháp của các giáo phái thời bấy giờ và đạt được quả vị cao nhất của các
tôn giáo, phái tu đó nhưng Ngài vẫn chưa hài lòng.
Thái tử vẫn
còn băn khoăn về con đường đem lại sự giải thoát, an lạc thực sự, vì vậy, bằng
chính nỗ lực của tự thân, Ngài đã tìm ra quả vị rốt ráo cao nhất bằng con đường
thiền quán. Nội dung của kinh Tứ Niệm Xứ bao quát toàn bộ giáo lý căn bản của đạo
Phật. Thực hành Tứ Niệm Xứ là thực hành Đạo đế trong Tứ Thánh Đế, là thực hành
Tam vô lậu học Giới – Định – Tuệ.
Tứ Niệm Xứ là
con đường độc nhất khiến chúng sinh thành tựu Thánh chính đạo, đạt đến Niết
bàn. Thiền Tứ Niệm Xứ bao gồm cả thiền Chỉ và thiền Quán, bao gồm tu Giới,
Định dẫn đến Tuệ phát sinh.
Vì vậy bài
kinh Đại Niệm Xứ là bài kinh vô cùng quan trọng đối với không chỉ cho người xuất
gia mà đối với hàng tại gia cư sĩ cũng mang lại lợi ích rất thiết thực. Bài
kinh Đại Niệm Xứ là bài kinh số 22 trong Trường Bộ kinh.
Chương
I. Con đường độc nhất trong kinh Đại Niệm Xứ
1. Duyên
khởi thuyết kinh
Mở
đầu bài kinh là câu nói: Tôi nghe
như vầy. Tôi này chỉ cho Đại đức Anan, Đại đức là vị thị giả của đức Phật.
Câu này xác chứng lại đây là bài pháp do kim khẩu của đức Thế Tôn thuyết giảng
được tôn giả Anan ghi nhận lại. Kinh Đại Niệm Xứ cũng như một số bài kinh quan
trọng khác như kinh Đại Duyên, đều được đức Phật thuyết tại xứ Kuru bởi xứ này mang một số đặc tính quan trọng.
Kuru là nơi dân trí phát triển
cao, trí tuệ của dân chúng nơi đây có thể tiếp thu giáo pháp và họ
có lòng tinh cần thực hành những lời đức Thế Tôn giảng dạy. Hàng ngày người dân
tại xứ này sẽ gặp nhau tại giếng nước vào mỗi buổi sáng. Họ thường trò chuyện với nhau về pháp hành mà họ thực tập mỗi ngày.
Khi có ai được hỏi họ có thực
tập chính niệm hàng ngày không, nếu trả lời có họ sẽ được khen ngợi, nếu trả lời không họ sẽ bị chỉ trích và họ sách tấn lẫn
nhau. Tại xứ Kuru này đã có rất nhiều bậc triết nhân ra đời. Vì vậy đức Phật chọn
nơi đây là nơi thuyết nhiều bài kinh quan trọng. Đức Thế Tôn thuyết về Tứ Niệm
Xứ như sau:
“Này các Tỳ kheo, đây
là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt
trừ khổ ưu, thành tựu chính lý, chứng ngộ
Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ”.1
Đức Phật nói Tứ Niệm Xứ này là con đường
độc nhất. Vì sao con đường này lại là độc nhất? Theo các bản sớ giải, độc nhất này
có hai nghĩa.
Thứ
nhất, độc nhất vì đây là con đường chỉ có thể đi một mình, không có ai bên cạnh
nâng đỡ hay đi thay ta.
Thứ
hai, độc nhất vì đây là con đường ly tham, không có bất cứ sự dính líu nào tới
phiền não, ái thủ.
Nói
tóm lại Tứ Niệm Xứ là con đường độc nhất vì nó thẳng tắp không có ngã rẽ, xa rời
các pháp uế nhiễm, một mình nó trong sạch thẳng tới Niết-bàn. Tứ Niệm Xứ này chỉ
có duy nhất ở trong Pháp và Luật của Như Lai, không có ở bất cứ Pháp và Luật
nào khác.
Ngài
lại định nghĩa Niết bàn như sau:
“Danh
từ Pali “Nibbana” Niết-bàn gồm hai phần: “Nib” và “bana” .“Ni” là hình thức phủ
định, không; “bana” là diệt hay ái. Ái này xem như sợi dây nối kiếp sống này với kiếp sống khác.
Gọi
Niết-bàn là sự dứt bỏ, sự tách rời,”Ni” ra khỏi ái, “vana” sự thèm khát nhục dục”2
Niết-bàn
là sự giải thoát rốt ráo cao tột. Niết-bàn là đích đến cuối cùng xa lìa sầu khổ
mà chúng sinh luôn hằng mong cầu. Trong
kinh Đại Niết Bàn viết: “Đây là sự bình
yên. Đây là sự bình yên tối thượng”3. Đức Phật gọi Niệm Xứ này là Đại vì
Niệm Xứ này bao gồm tổng thể các nguyên tố, nó không phải là nguyên tố duy nhất
và cuối cùng.
Đức
Phật đã từng ví dụ trong kinh Simsapa những gì ngài biết như lá trong rừng còn
những gì ngài thuyết giảng chỉ như nắm lá trong lòng bàn tay.
2. Nội
dung Tứ Niệm Xứ được đức Phật thuyết giảng trong kinh
Mục
đích tu tập Tứ Niệm Xứ là nhằm hiểu rõ quá trình vận động của Danh và Sắc. Danh
và Sắc là hai yếu tố cơ bản cấu thành nên một chúng sinh. Hành giả niệm Bốn xứ
này sẽ nhận chân được mối quan hệ giữa Danh Sắc chỉ là do duyên sinh.
Vì Danh Sắc này do duyên sinh nên chúng không có thực thể. Vì
chúng không có thực thể nên Danh Sắc này vô ngã. Hành giả thấy được Danh Sắc có
mặt là do duyên sinh, thấy chúng sinh diệt liên tục trên bề mặt hiện tượng. Sự
sinh diệt này là bản chất vô thường của chúng. Danh và sắc vô thường như vậy
nên hành giả thấy được sự đau khổ do vô thường đó gây ra. Hành giả tiếp tục
quán sát sự sinh diệt, biến hoại của danh sắc đó và khởi lên nhàm chán danh sắc,
tiến đến ly tham, đoạn diệt tham ái, chứng được giải thoát thanh tịnh.
Đức
Thế Tôn tùy vào căn cơ của chúng sinh mà thuyết ra Bốn Niệm Xứ. Hạng thứ nhất
ái nhiều, trí chậm, tánh thô tháo người này sẽ niệm thân. Hạng thứ hai ái nhiều
trí nhanh người sắc sảo sẽ niệm thọ. Hạng thứ ba tà kiến nhiều, trí chậm sẽ niệm
tâm. Thứ tư, hạng cuối cùng tà kiến nhiều, trí nhanh sẽ niệm pháp.
Đức
Phật dạy như sau: “Thế nào là bốn? Này
các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chính niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chính niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chính niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, để chế ngự tham ưu ở đời”4.
3. Tiến trình tu tập đưa đến giải thoát
Tiến
trình tu tập này bao gồm bảy giai đoạn thanh tịnh. Thứ nhất là Giới thanh tịnh.
Ở giai đoạn này hành giả giữ gìn giới thể nghiêm mật, tròn đầy viên mãn tức là
Giới thanh tịnh. Thứ hai là Tâm
thanh tịnh, tâm thanh tịnh này nghĩa là
hành giả đã đạt định, định sẽ khiến cho tâm được thanh tịnh. Thứ ba là Chính
trí giải thoát gồm năm giai đoạn thanh tịnh của Tuệ.
Một
là Kiến thanh tịnh. Ở giai đoạn này hành giả nhờ quán sát liên tục trên đề mục
nên biết được con người chỉ là tập hợp của Danh Sắc. Hành giả phân biệt rõ cái
nào thuộc nhóm Danh, cái nào thuộc nhóm Sắc và nguyên nhân vì sao chúng lại thuộc
nhóm Danh hoặc Sắc. Người này nhận chân các sự việc một cách rõ ràng, chứng được
tầng Tuệ thứ nhất, Tuệ phân biệt Danh Sắc. Hai là Đoạn nghi thanh tịnh nghĩa là
chấm dứt nghi ngờ. Trên cơ sở kiến thanh tịnh, người này tiếp tục quan sát đề mục và hiểu rõ năm nguyên nhân đưa đến
thân chúng sinh, tức nguyên nhân có Danh và sắc là: Vô minh, nghiệp, ái dục, thủ
và đoàn thực. Trong đó vô minh và nghiệp là nhân quá khứ; ái và thủ là nhân hiện
tại; thức ăn là duyên và quả là sự hiện hữu.Vị này quán sát rõ ràng nên thoát
khỏi nghi ngờ về ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Lúc này vị ấy chứng tầng Tuệ
thứ hai: Tuệ phân tích nhân quả.
Ba
là giai đoạn Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh. Ở giai đoạn này hành giả đạt được
thanh tịnh nhờ suy tư các uẩn do nhiều thành phần hợp lại, biết rõ sự diệt của
Danh và Sắc là do nhân duyên diệt. Vị này chứng đạt tầng Tuệ thứ ba: Thẩm sát
tuệ hay còn gọi là Tư duy trí. Trong khi quán sát đối tượng, vị này thấy có một
số hiện tượng lạ như ánh sáng phát ra nơi thân, tâm trở nên an lạc nhẹ nhàng,…Vị
này cố gắng hiểu và phân biệt được các hiện tượng trên chỉ là kết quả của định
tâm cao, chưa phải sự chứng đắc và tiếp tục tu tập. Nhờ vào trí tư duy chân chính, vị này biết rõ đâu là
chính đạo đâu là phi đạo. Khi suy tư về các hiện tượng phát sinh, thấy được các
chúng sinh sinh lên rồi mất đi, vị này chứng giai đoạn đầu của Sinh diệt trí,
là tầng Tuệ thứ tư.
Giai
đoạn tiếp theo là Hành đạo tri kiến thanh tịnh. Đây là trạng thái trong sạch của
sự hiểu biết, khi vị này hướng tâm đến ba pháp ấn, có sự trạch pháp trong pháp hành. Lúc này vị này chứng chín tầng tuệ:
– Sinh diệt trí: Thấy từng cái một khởi
– Hoại trí: Thấy được mọi
vật đều hướng đến băng hoại.
– Bố úy trí:
Thấy
thế giới là đáng sợ hãi.
– Nguy hiểm trí: Thấy thế giới là nguy hiểm
–
Yểm ly trí: Thấy thế giới này cần
phải tránh
– Dục thoát trí: Thấy thế giới này cần thoát
– Giản trạch trí: Lấy trí phân tích để
giải thoát.
– Hành xả trí: Không tham ái đối với
sắc tốt, không sân hận với sắc xấu.
– Thuận thứ trí: Trí này tùy
thuận với Ba bảy phẩm
trợ đạo, hướng đến Thánh tuệ.
Giai
đoạn cuối cùng là Tri kiến thanh tịnh. Hành giả khi bước vào được giai đoạn này
có sự thấy biết hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả bước vào dòng Thánh do tuệ giác
khai triển trong lúc quán sát một
trong ba pháp ấn, vị này đạt được bốn tuệ của bậc Thánh:
– Tuệ chuyển Thánh.
– Đạo tuệ: đoạn trừ hoàn toàn
thân kiến, nghi, và giới cấm thủ.
– Quả tuệ thứ nhất: bước vào quả Dự Lưu.
– Tuệ nhìn lại: kiểm soát lại phiền não nào chưa được đoạn tận.
Trong
giai đoạn này hành giả ba lần quán sát lại từ giai đoạn đầu tiên của tiến trình
đi đến giải thoát. Nhìn lại lần hai vị này tu lại thấy được tầng tuệ thứ mười lăm, làm muội lược tham, sân đắc quả Nhất Lai. Nhìn lại lần
thứ ba, tu lại thấy tầng tuệ thứ mười sáu, đoạn được năm hạ phần kiết sử, tức đoạn trừ hoàn toàn được tham, sân và đắc quả Bất Lai. Nhìn lại lần cuối
cùng vị này thấy được các tầng tuệ từ một đến mười lăm, đoạn thêm năm thượng phần
kiết sử, đắc quả vị A-la-hán, thành tựu được Tam minh.
Hành
giả tu đắc được quả vị A-la-hán, khi
nhập Niết-bàn sẽ tùy theo pháp mà vị ấy chọn lúc tu tập quán tưởng mà gọi tên.
Chân không Niết-bàn là Niết-bàn của bậc chọn quán vạn pháp là vô ngã. Vô tướng
Niết-bàn là Niết bàn của vị chọn quán vạn pháp là vô thường. Vị quán thấy khổ
thế gian quá nhiều, khi đắc Niết- bàn không mong cầu lạc nào hơn nữa, không còn
nguyện ước đạt trạng thái nào hơn sẽ đắc Vô nguyện Niết bàn.
Chương
II. Mối liên hệ giữa Tứ Niệm Xứ và Bát Chính Đạo trên con đường độc nhất.
1.
Bát
chính đạo có trong Tứ Niệm Xứ
Trong kinh đức Phật định nghĩa về
Bát Chính đạo như
sau:
“Này các Tỳ kheo, thế
nào là Khổ diệt Đạo Thánh đế. Đó là Bát Thánh đạo, tức là Chính tri kiến, Chính
tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định”5
Ba
giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ đều có sự góp mặt của Tám chi ngành Thánh đạo. Ba
giai đoạn đó là: Giai đoạn mới bước vào tu tập
- Giới thanh tịnh; giai đoạn đang tu tập thiền định
- Tâm thanh tịnh; và
giai đoạn trên nền tảng của
định tu tập tuệ quán
- Tuệ thanh tịnh.
1.1. Giai đoạn mới bắt đầu tu tập: Giới thanh tịnh
Đức Thế Tôn
đã dạy:
“Này các tỳ kheo, khi
nào các ông được giới khéo thanh tịnh và chính tri kiến các ông hãy y cứ trên
giới, an trú trên giới, hãy tu tập Tứ niệm xứ”.6
Đây là giai đoạn hành giả mới bắt đầu đặt chân vào ngưỡng cửa tu thiền. Ở giai đoạn này hành giả phải giữ giới một cách nghiêm mật và cần có đầy đủ cả Tám chi phần của Bát thánh đạo. Vị này giữ giới liên hệ đến tám chi ngành: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Giai đoạn này Giới thanh tịnh tạo được nền tảng vững chắc cho định thành tựu. Giới đóng vai trò cốt yếu cho bước khởi đầu tu tập thiền định của hành giả.
1.2. Giai đoạn đang tu tập Thiền
Đây
là giai đoạn thành tựu định, khiến tâm trở nên thanh tịnh. Hành giả chú tâm vào
đề mục để thiết lập năm thiền chi: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Vị này do chú
tâm vào đề mục đè nén được năm triền cái: Hôn trầm, hoài nghi, sân hận, trạo cử
và tham dục, đạt được Nhất tâm. Đức Phật dạy: “Tu tập chính tinh tấn, chính niệm và chính định là tu tập Tứ Niệm Xứ”7. Trong khi hành giả chính niệm trên đề mục,
hành giả cùng lúc thực hành trọn vẹn năm yếu tố của Bát thánh đạo: Chính tinh tấn,
chính niệm, chính định, chính kiến và chính tư duy. Ba chi ngành còn lại của
Bát thánh đạo thuộc về Giới: Chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng cũng có mặt vì
nó luôn tồn tại trong quá trình thiết lập chính niệm.
Ví
dụ trước khi tu thiền hành giả phải trải qua quá trình giữ giới thanh tịnh, như
vậy là hành giả thực hành được chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng.
Trong
khi thực hành niệm hơi thở, hành giả chính niệm trên sự phồng xẹp nơi bụng. Khi
ta nỗ lực tập trung vào đối tượng, bụng chúng ta phồng lên xẹp xuống ta cố gắng
ghi nhận đây là Chính tinh tấn. Vị này tác ý giữ tâm vững chắc trên đối tượng,
ta có ý thức sáng suốt theo dõi sự phồng lên xẹp xuống của bụng gọi là Chính niệm.
Hành giả ghi nhận sự phồng hay xẹp, tâm của vị ấy chỉ nằm trên sự phồng hay xẹp
mà không chạy đi nơi khác. Lúc này hành giả giữ tâm định sâu vào đối tượng gọi
là Chính định. Tiếp đó, hành giả phân biệt được sự khác nhau của đối tượng và
tâm ghi nhận: phồng xuất hiện trước và tâm ghi nhận tiếp nối sau đây được gọi
là Chính kiến. Với chính kiến, vị này hướng tâm đến đối tượng. Lúc tâm ghi nhận không hướng vào đề mục, trong tâm
hành giả khởi lên niệm hướng tâm trở lại ghi nhận đề mục, đây gọi là Chính tư
duy. Như vậy, trong quá trình đi đến đạt tâm thanh tịnh, hành giả đã thực hành
đầy đủ tám chi phần của Bát thánh đạo.
1.3. Giai đoạn trên nền tảng của Định tu tập Tuệ quán
Tiến
tới giai đoạn này là hành giả đang có nền tảng định vững chắc. Thực hành
Tứ Niệm Xứ là đang phát triển Minh Sát trí, tức là Chính kiến. Dùng thiền
Minh Sát trí nhằm phơi bày bản chất của Khổ đế và Tập đế. Nhờ nhận diện được khổ
và nguyên nhân của khổ mà vị này nỗ lực an tịnh vô vi, an trú trên vô vi, định
tâm trên vô vi.
Trong
quá trình tu tập chính kiến này các chi phần chính tư duy, chính tinh tấn,
chính niệm, chính định cùng ba chi phần thuộc về Giới luôn đồng hành cùng với
chính kiến.
Ví
dụ thấy được sự thật phơi bày về bản chất của khổ và khổ tập trong tiến trình
thể nhập tuệ quán chính là chính kiến.
Hành giả hướng tâm vững chắc vào đối tượng danh sắc của Tứ Thánh Đế trong từng sát na gọi là chính tư duy. Vị ấy tiếp tục
nỗ lực về cả thân và tâm trong sự thực hành gọi là chính tinh tấn. Chính niệm
là vị này luôn an trú trên bản chất của Tứ thánh đế. Do an trú như vậy vị này đạt
được an tịnh, hoàn toàn định tâm trên đề mục thiền Tứ thánh đế gọi là chính định.
2.
Tứ Niệm xứ có trong Bát Chính đạo
Trong
kinh Niệm Xứ đức Phật dạy: “Này các Tỳ
kheo, ở đây Tỳ kheo sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chính niệm để
chế ngự tham ưu ở đời”8. Trong Tứ Niệm xứ hành giả tinh cần chính là
chính tinh tấn, tỉnh giác chính niệm
chính là chính niệm và chính định. Như vậy Tứ Niệm Xứ thuộc về nhóm Giới và Định
của Bát chính đạo. Bát chính đạo là một phần không thể thiếu của Tứ Niệm Xứ.
Trong kinh đức Thế Tôn đã dạy:
“Khéo tu tập Bát Thánh
đạo, làm sung mãn Bát Thánh đạo, thời Tứ Niệm Xứ được tu tập đi đến viên mãn, Tứ Như ý túc…, Ngũ căn…,Ngũ lực…, Thất Giác chi… được tu tập đi đến viên
mãn”.9
Chương
III. Ứng dụng Tứ Niệm Xứ trong thực tiễn
1. Hệ quả của giáo lý Tứ Niệm Xứ
Pháp
quán Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất đạt đến Thánh chính đạo, nó đem lại cho
chúng ta bảy lợi ích:
– Tịnh hóa các chúng sinh
– Vượt qua sầu muộn
– Thắng phục bi ai
– Đoạn tận khổ đau
– Chấm dứt ưu phiền
– Đạt đến chính đạo
– Chứng đắc Niết bàn
Thực
hành quán Tứ Niệm Xứ hành giả nhận ra thế giới này đầy rẫy những nguy hiểm đáng
sợ. Vạn vật đều chịu tác động của quy luật vô thường nên mọi thứ đều không đáng
tin cậy, không thể bám víu. Chúng
ta không thể chi phối được mọi chuyện theo ý mình,
tất cả của cải hay quyến
thuộc mà ta cho rằng đó là của ta đều
không thể mang theo được sau khi thân xác này tan rã. Mỗi người là chủ nhân của chính
mình. Chúng ta phải tự chịu trách
nhiệm với suy nghĩ và việc
làm của chúng ta, không ai có thể gánh vác trách nhiệm thay chúng ta được. Quán Tứ Niệm Xứ là thấy rõ bản chất của cuộc đời là khổ, hiểu rõ được
nguyên nhân vì sao đưa đến khổ này từ đó tìm cách thoát ly. Hành giả hiểu rõ khổ không đáng sợ bằng
việc không thấy được nguyên nhân của khổ. Người không thấy được nguyên nhân của
khổ không bao giờ có thể diệt trừ được sự khổ.
2. Thực hành Tứ Niệm Xứ trong đời sống
hàng ngày
Thiền
Tứ Niệm Xứ hay còn gọi tắt là Tứ Niệm Xứ đem lại lợi ích thiết thực ngay trong
đời này và cả những đời sau. Hành giả
tu Tứ Niệm xứ không chỉ đạt được hạnh phúc an vui trong cuộc sống hàng ngày mà
còn đem lại quả xuất thế. Thiền Tứ Niệm Xứ giúp chúng ta giải quyết được những
khó khăn bế tắc do cuộc sống hàng ngày đem lại. Mỗi ngày con người chúng ta đều
phải đối mặt với những âu lo trong cuộc sống mưu sinh. Mỗi người đều bận rộn
xoay vần với những nỗi khổ niềm đau do ái thủ đem lại. Cuộc sống vật chất càng
phát triển song song với việc đòi hỏi của con người với cuộc sống này càng cao.
Nhu cầu con người càng cao đồng nghĩa với việc ái thủ càng nặng, con người lại
càng lún sâu vào bể khổ luân hồi.
Để
giải quyết nhu cầu tinh thần của con người trước đời sống vật chất đầy dục lạc,
rất nhiều trường dạy thiền được mở ra với mục đích xoa dịu sự khổ đau của con
người. Con người là chủ thể tạo ra cuộc sống nhộn nhịp này nhưng cũng chính con
người bị nó làm cho điêu đứng lầm than. Các trường thiền được mở ra khắp nơi và
được mọi người tham gia rất đông đúc bởi lợi ích thiết thực của nó mang lại.
Thiền cuộc sống là loại thiền nhập thế, có thể áp dụng bất cứ lúc nào nhằm xoa
dịu tâm thức của con người trước nghịch cảnh của cuộc sống. Mọi người đến trường thiền sẽ được học cách thực tập thiền
học mỗi ngày hay thậm chí mỗi giây mỗi phút để con người có thể vững vàng đối mặt
với cuộc sống bận rộn. Thiền giúp chúng ta quay trở về con người của chính
mình, không bị các ngoại cảnh cuốn theo khiến chúng ta đau khổ. Mỗi giây mỗi
phút chúng ta đều làm chủ được chính mình không chỉ giúp bản thân mình thư thái nhẹ nhàng mà nó còn giúp chúng ta đạt được hiệu quả cao trong công việc. Thiền chính niệm giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. Thiền Tứ Niệm Xứ giúp giải quyết mọi
nhu cầu của con người từ đạt được hạnh phúc ngay hiện tại hay tạo cái nhân để thành tựu quả xuất thế. Vì vậy, thực hành Thiền
Tứ Niệm Xứ là nền tảng
căn bản giúp một con người sống đời sống thảnh thơi an lạc.
Kết
luận
Trường Bộ kinh là một trong năm bộ kinh cốt tủy của Phật giáo từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Kinh Đại Niệm Xứ thuộc Trường Bộ
kinh khẳng định chắc chắn với chúng ta rằng Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất có
năng lực tịnh hóa chúng sinh. Tứ Niệm Xứ là pháp môn tối thắng phù hợp với tất
cả các loại căn cơ của chúng sinh từ thượng căn đến hạ căn. Bất kỳ chúng sinh nào có thể hiểu và thực hành Tứ Niệm Xứ đều có thể đạt được an vui hạnh phúc.
Không chỉ vậy, Tứ Niệm Xứ còn là pháp môn của thời đại. Bất kỳ ở tại thời gian và không gian
nào chúng sinh đều có thể thực hành Tứ Niệm Xứ để đạt được pháp hỷ trong mỗi
phút giây. Đức Phật đã khẳng định chắc chắn trong kinh rằng đây là con đường độc
nhất thẳng đến giải thoát Niết-bàn. Vì vậy tầm quan trọng của kinh Đại Niệm Xứ
là không thể phủ nhận. Thiền Tứ Niệm Xứ còn là pháp hành giúp thanh tịnh hóa
chúng sinh, diệt trừ khổ ưu chấm dứt sinh tử luân hồi. Tứ Niệm Xứ là con đường
hành trì độc đáo của đạo Phật
Phật
pháp không phải là hệ thống triết lý lý luận suông. Giáo lý đạo Phật là con đường
hành trì giúp chúng sinh đoạn tận khổ đau, giải thoát sinh tử đến bờ Niết-bàn.
Đức Phật là nhà hoằng pháp vĩ đại, chỉ trong 49 năm ngắn ngủi ngài đã để lại
cho nhân loại khối kiến thức vĩ đại mà đến tận ngày nay con người vẫn chưa chạm
tới được. Kinh Pháp Cú số 79 dạy:
“Ai thấm nhuần pháp hỷ, Tâm an ngủ bình an. Nên bậc trí hân hoan, Với pháp Thánh nhân dạy”.
Chú
thích:
1.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, số 22, Đại Niệm Xứ, Hà Nội, nxb Tôn Giáo,
2016, tr .445.
2.
Đức Phật Và Phật Pháp,
Phạm Kim Khánh
(dịch), Hồ Chí Minh, nxb Tổng Hợp, 2019,
tr.330.
3.
Kinh Đại Niết Bàn, tập I, Hà Nội, nxb Tôn Giáo, 1994, trang 122-81.
4.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng, Tập V, Đại Niệm Xứ, Hà Nội, nxb Tôn Giáo, 2016, tr. 49.
5.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, số 22, Đại Niệm Xứ, Hà Nội, nxb Tôn Giáo, 2016, tr .457.
6.
Thích Chơn Thiện, Phật Học Khái Luận, Hồ Chí
Minh, nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh, 2018, tr. 46.
7.
Sđd, tr. 456.
8.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, số 22,
Đại Niệm Xứ, sđd, tr .445.
9.
Kinh Tương Ưng, Thích Minh Châu (dịch),
Tập V, Đại Niệm Xứ, Hà Nội, nxb Tôn Giáo,
2016, tr. 49.
Thư mục tham khảo
1.
Kinh Đại Niết Bàn, Hà Nội, nxb Tôn Giáo, 1994.
2.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ. Hà Nội, nxb
Tôn Giáo, 2016.
3.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng V. Hà Nội, nxb Tôn Giáo, 2016.
4.
Đức Phật Và Phật Pháp. Phạm Kim Khánh (dịch).
Hồ Chí Minh, nxb Tổng Hợp, 2019.
5.
Thích Chơn
Thiện. Phật Học Khái Luận. Hồ Chí Minh, nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh, 2018.
----------------------------------------
Source >>Con đường độc nhất đưa đến thành tựu Thánh Đạo, chứng ngộ Niết bàn (tapchinghiencuuphathoc.vn)