PHẬT HỌC » PHẬT HỌC KHÁI LƯỢC
BÁT QUAN TRAI GIỚI
| Thursday, 02.03.2023, 08:05 AM | (249 Xem)
A. MỞ ĐỀ.
Giáo lý của đức
Phật bình đẳng, không phân biệt, đều giúp cho hết thảy chúng sanh tu tập theo
giáo lý ấy để đoạn trừ vô minh, thanh tịnh an vui, vượt khỏi sinh tử luân hồi, đạt
được giác ngộ giải thoát. Giáo lý của Ngài phổ biến bình đẳng như ánh trăng chiếu
diệu khắp muôn phương, không phân biệt núi đồi hay đồng ruộng, nhân loại hay vạn
vật. Tuy vậy, những pháp môn dẫn đạo lại có nhiều sai khác vì căn cơ, thức tánh
và nghiệp tánh của chúng sinh không đồng. Cũng giống như nước trăm sông khác
nhau nhưng cùng chảy về biển cả chung cùng một vị mặn. Giáo pháp tuy nhiều pháp
môn nhưng cùng một vị, đó là vị giải thoát. Bởi vậy, hành giả tu tập phải tùy căn
cơ và trình độ của mình mà tiếp nhận và hành trì cho nghiêm mật, thì dù bất cứ
pháp môn nào cũng đều đến đích, cuối cùng được giải thoát khổ đau.
Bát
quan trai giới là một trong muôn ngàn phương tiện mà đức Thế Tôn đã vì hàng cư
sĩ tại gia bận rộn nhiều công việc với xã hội, phải sống với hạnh nghiệp của trần
gian thì khó có cơ hội để tiến lên con đường giải thoát (trừ Bồ-tát thị hiện).
Vì thế, đức Phật đã chế giới Bát quan trai cho hàng cư sĩ tu tập trong một ngày
một đêm, thực hành hạnh nghiệp xuất ly. Thời gian tuy ngắn những thực hành đúng
như pháp thì công đức và kết quả lợi ích vô cùng… Muốn có công đức và thấy được
kết quả, hàng cư sĩ cần phải tìm hiểu ý nghĩa, học tập và thực hành pháp môn Bát
quan trai giới này.
B. CHÁNH ĐỀ
I. Ý nghĩa giới bát quan trai:
Bát
quan là tám cánh cửa. Ý nói rằng: chúng sinh tạo tác tám điều sát sinh, trộm cắp,
dâm dục, nói dối, uống rượu, trang sức và múa hát cũng như xem nghe hát, ngồi nằm
chỗ cao tốt, ăn trái thời… là mở cửa rộng lớn cho mình đi vào con đường tội lỗi,
sống chết trôi lăn trong luân hồi ác đạo, nếu muốn giải thoát thì phải đóng tám
cửa ấy lại. Nghĩa là phải diệt trừ và tránh tám điều vừa mới kể ở trên. Diệt được
tám ác pháp ấy là đóng kín tám cửa, không đi đến cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh, đồng thời mở tám nẽo đường đi lên địa vị Hiền Thánh.
Trai:
Có nghĩa là đúng thời. Trong ba việc ăn, mặc, ở, người đời ham mê bao nhiêu,
thì ngược lại kẻ tu hành càng biết kềm chế, xem thường bấy nhiêu. Người tu hành
tu tập theo nếp sống tri túc, “trung đạo”; nghĩa là trong cuộc sống đối với ba
việc ấy là biết vừa đủ, sống làm sao để giúp cho đường tu ít hệ lụy, nhất là việc
ăn uống. Ở trong Luật, trai giới được chia ra làm hai cách là: ăn đúng thời và ăn
trái thời. Người tu hành cần phải y theo lời Phật dạy, không nên ăn trái thời;
không ăn trái thời gọi là trai. Và chữ “Trai” còn có một nghĩa cao hơn, đó là “Tề”,
tức là ngang bằng với cách ăn của chư Phật.
Giới:
Còn có khi nói là giới pháp hay giới luật; là những điều Phật dạy không nên làm để ngăn chặn những hành động
xấu ác. Nguyên ngữ tiếng Phạn gọi là Sìla
(Trung Hoa dịch âm là Thi-la) hay
Paratimoksa (Trung Hoa dịch âm là
Ba-la-đề-mộc-xoa). Có nghĩa là nếu người nào thực hành được những điều này sẽ được
an lạc, giải thoát. Tám trai giới là:
1. Không
được sát sanh.
2. Không
được tà dâm.
3. Không
được trộm cướp.
4. Không
được nói dối.
5. Không
được uống rượu .
6. Không
được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.
7. Không
được ngồi giường cao rộng đẹp đẽ.
8. Không
được ăn quá giờ ngọ .
Tám điều
này là cả trai và giới gộp lại. Bảy điều trước là giới, điều thứ tám là trai; cộng
lại gọi là giới Bát quan trai. Đây là pháp Phật chế cho hàng Phật tử tại gia thực
tập hạnh xuất gia trong thời gian một ngày một đêm.
II. Phương pháp thọ giới Bát quan trai.
Theo
kinh Thiện Sanh, kinh Tăng nhất A-hàm, đức Phật dạy các hàng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di
trong những ngày mùng 1, 8, 14, 15, 23, 30 (lục trai) nên đến trước các bậc xuất
gia, phạm hạnh thanh tịnh để cầu thọ trai giới. Đời nay luật và giới đã bị chuyển
theo hoàn cảnh quốc độ, mạng sống con người dần dần suy giảm, tâm niệm hẹp hòi,
giải đãi nên càng phải uyển chuyển, tùy duyên. Vì thế, sự tu tập phải uyển chuyển
tùy tâm phát nguyện. Song dù sao thì có còn hơn không, bởi còn phát nguyện, còn
tu trì thì thế nào cũng còn đi đến có ngày giải thoát.
Phương
pháp tu giới Bát quan trai có hai cách:
1. Chánh thọ Bát quan trai:
Thọ trì một ngày một đêm vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23, 30. Âm lịch
2. Phụ thọ Bát quan trai:
Còn gọi là ngày rước và đưa; tức là trước và sau những ngày chánh thọ, như các
ngày mồng 2, 7, 9, 13, 16, 22, 24, 29 (hoặc 28 nếu tháng thiếu), bởi người tại
gia thường bị ràng buộc bởi nhiều duyên sự, không thể tức khắc bỏ hẳn để đi tu
tập được. Do vậy phải cần dự bị cho thanh tịnh trước một ngày của ngày chánh thọ
và sau một ngày để hoàn thành tịnh giới ấy.
Trong
hai cách trên, cách chánh thọ phải tìm đến nơi các vị xuất gia cầu thọ, còn
cách thức hai thì chỉ cần tự phát nguyện là đủ. Cách chánh thọ vẫn có thể ở nhà
để tu tập và hành trì giới pháp được, nhưng trước phải đến thọ với người xuất
gia lúc minh tướng vừa xuất hiện. Nhưng nếu hoàn cảnh minh tướng xuất hiện mà
liệu chưa đi đến thọ với người xuất gia được thì phải đối trước tượng Phật phát
nguyện thọ giới rồi sau đó phải tìm đến người xuất gia để thọ mới đắc giới.
Tóm lại,
thọ trì giới Bát quan trai phải 14 ngày mỗi tháng, kể cả chánh thọ và phụ thọ.
Nhưng ngày nay hoàn cảnh của Phật tử tại gia khó bề thực hiện được trọn vẹn như
thế, thì tối thiểu phải một ngày một đêm, phải phát nguyện thọ phụ trước một
ngày một và sau một ngày để được lợi ích.
III. Lợi ích của giới Bát quan trai:
Theo
kinh Ưu-bà tắc: “Thiện nam tử, nếu có tìm người xuất gia, lãnh thọ ba pháp quy
y, tám trai giới (xướng ba lần) trong một ngày một đêm thì người ấy hoàn thành
trai giới, giới thể được thanh tịnh dù chỉ một ngày một đêm nhưng lợi ích rất lớn”.
“Qua
đêm sau, khi minh tướng xuất hiện thì giới ấy hết và giới ấy không được sự thọ
trước tượng Phật mà phải thọ với người xuất gia. Thọ rồi căn bản thanh tịnh, cứu
cánh thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh, tâm niệm thanh tịnh, giác quan thanh
tịnh, sự mong cầu và kết quả cũng được thanh tịnh. Thế gọi là ba pháp quy y và
tám trai giới thanh tịnh”.
“Thiện
nam tử, thanh tịnh thọ trì ba quy y và tám trai giới như vậy thì diệt trừ được
năm tội nghịch và tất cả tội lỗi khác cũng đều tiêu diệt. Tám giới này không được
hai người cùng nói thọ một lần”.
“Năng
lực của tám giới này có thể làm cho đời sau thọ thân không làm điều ác. Những
ai có trách nhiệm muốn tổ chức thọ ba quy y và tám trai giới này, trước hết phải
khuyến khích thuộc địa phận của mình, trong một ngày đêm sắp thọ ấy, đình chỉ tất
cả mọi điều ác, kể cả các loại hình phạt. Nếu thanh tịnh thọ trì trai giới như
vậy thì người ấy được vô lượng an lạc cho đến đạt được cảnh giới giải thoát Niết-bàn
an lạc”.
IV. Giải thích rõ tám điều răn
cấm nói trên
1. Không được sát sanh:
Chúng sanh mặt dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống
nhau là tham sống sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho
xa xôi, ngay trong sự quan sát hàng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người
cá lội xa, chim thấy người chim bay, người thấy cọp người lẫn trốn, vì đều sợ
lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim cá hay người đều tìm cách để cố trốn
thoát, và khi được thả ra, thoát chết thì chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng.
Nhận thấy được sự ham sống sợ chết, nỗi vui mừng, đau xót của muôn loài như thế,
mà chúng ta còn cố tâm giết hại sanh mạng thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
Từ
trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện: nào làm lưới
để bắt cá dưới nước, hoặc dùng cung tên, súng đạn để bắn cầm thú trên đất... và
nhất là dùng đủ mưu mô kế để giết hại chém giết lẫn nhau. Phật tử chính là những
người theo đạo từ bi không nên sát hại, nhất là sát hại người. Còn đối với loài
vật thì vì Phật tử tại gia còn phải nhiều chướng duyên trong gia đình và xã hôị
nên khó tránh. Vậy ít ra trong ngày thọ bát quan trai giới người Phật tử tại
gia không nên giết hại, không khuyên người khác giết hại, không tỏ ý vui mừng
khi thấy người khác giết hại. Mặc dù chỉ một ngày đêm giữ giới nhưng lợi ích
thì vô cùng.
2.
Không được trộm cướp: Như
đã trình bày ở bài Ngũ giới, trộm cướp nghĩa rất rộng. Những vật thuộc quyền sở
hữu của người ta từ cây kim ngọn cỏ cho đến nhà cửa ruộng đất, vàng bạc kho báu...
không được không cho mà lấy. Ngay cả các việc khác như trốn thuế, hối lộ, gian
xả o trong đo lường tất cả đều thuộc về tội trộm cướp. Nỗi khổ mất tiền, mất của
của mình như thế nào thì nỗi khổ của họ cũng như thế ấy, phải suy lòng ta nghĩ
ra lòng người, và không được vô cớ lấy của không cho. Trong khi thọ Bát quan trai
chúng ta phải tâm niệm rằng: như chư Phật suốt đời không trộm cướp con nguyện một
ngày không trộm cướp, không nghĩ đến trộm cướp, không khuyên người khác trộm cướp,
không đồng tình với người trộm cướp... không những thế chúng con còn nguyện bố
thí cho những người nghèo kho, túng thiếu...
3.
Không được dâm dục: Tất
cả các kinh điển đều dạy: "dâm dục là cái gốc của sanh tử luân hồi,
không trừ được dâm dục thì không bao giờ đạt tới cảnh giới Niết Bàn".
Không đoạn trừ dâm dục mà tu giải thoát Niết bàn thì cũng như người nấu cát mà
muốn thành cơm vậy. Theo bài Năm giới, Phật tử tại gia không bắt buộc phải đoạn
tận dâm dục, nên đức Phật chỉ cấm tà dâm, nhưng trong bài nầy đức Phật cấm tuyệt
đối không được dâm dục, vì lẽ rằng ngày thọ trì Bát quan trai giới thì phải tuyệt đối giữ tâm ý trong sạch, không được
hành dâm và cũng không được để tâm nghĩ đến chuyện dâm dục... Nếu giữ giới này được
thanh tịnh thì dù chỉ một ngày một đêm cũng đã đạt được nhiều lợi ích.
4.
Không được nói dối: Nói
dối tức là miệng nói tâm nghĩ trái ngược nhau. Có bốn cách nói dối đó là: nói dối,
nói thêu dệt, nói hai lưỡi và nói ác khẩu. Nói dối là nguyên nhân dẫn đến sự
chia rẽ, ganh ghét nhau. Điều tai hại nhất của người hay nói dối là khi nói thật
người khác sẽ không tin mình nữa, ấy là nguyên nhân dẫn đến sự không tin tưởng
nhau rồi gây gổ, oán thù nhau. Phật tử không nên nói dối cho dù ở thời gian
nào, địa điểm nào và rèn luyện làm sao để tâm tư không còn nghĩ đến chuyện nói
dối. Đặc biệt trong ngày thọ Bát quan trai thì nhất định không được nói dối.
Hành trì được như vậy thì cho dù chỉ một ngày đêm chúng ta cũng có lợi ích vô
cùng.
5. Không được uống rượu:
Rượu có thể làm say, tâm
trí bấn loạn, hành động tội lỗi sai trái, có thể làm cho ta đoạ lạc trong tam đồ,
khốn khổ. Trong kinh, luật đức Phật dạy rằng: "Thà uống nước đồng sôi, cẩn thận chớ phạm đến rượu". Như
thế, chúng ta không những không nên uống rượu mà chúng ta còn không được mang rượu
cho người khác uống, không khuyên người khác uống rượu, không được thấy người
khác uống rượu mà vui mừng, không được ưa thích đến quán rượu... trong những
ngày thường cũng như những ngày trai giới. Tuy nhiên nếu người nào đó bị bệnh,
không rượu không thể chữa được thì có thể cho phép dùng rượu, khi lành bệnh rồi
thì không được dùng nữa. Trong ngày thọ bát quan trai giới thì tuỵệt đối không
nên dùng rượu.
6. Không trang sức, múa hát và xem múa
hát: Năm
giác quan của chúng ta tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân là năm cánh cửa quan
trọng, chúng có công năng giúp chúng ta đạt đến Niết bàn mà cũng có thể đẩy ta
vào chốn địa ngục. Vì vậy, chúng ta phải làm sao để mở những cánh cửa ấy về nẽo
thanh tịnh thì chúng ta sẽ được giải thoát, ngược lại nếu chúng ta mở những
cánh cửa ấy về nẽo ô trược thì chúng ta nhất định sẽ bị rơi vào địa ngục. Dùng
những thứ dầu thơm, nước hoa, nghe ca hát, nhảy múa đó là mở cánh cửa để đi về
cõi dục lạc, làm tăng trưởng ngã chấp về thân giả huyễn nầy, khiến chúng ta phải
đắm đuối yêu thích để rồi sanh luyến ái, không thể nào giải thoát được. Đặc biệt,
trong những ngày thọ trì Bát quan trai giới thì tuyệt đối không được phạm.
Chúng ta sống không thể thiếu sự chăm sóc và rèn luyện cho thân thể sạch sẽ và
khỏe mạnh, nhưng trang điểm không phải đồng nghĩa với sự chăm sóc cơ thể. Ngày
trai giới mặc dù chúng ta không nên trang điểm nhưng phải thân tâm phải sạch
se, như thế công năng của việc thọ trì giới Bát quan trai mới thành tựu.
7. Không được nằm ngồi giường quá cao
sang, đẹp đẽ: Giới
cấm này giúp Phật tử ngăn ngừa tâm buông lung theo sự hưởng thọ năm dục nên Phật
chế ra giới cấm này. Xưa ngài Ngộ Đạt vì thọ nhận bảo toạ bằng trầm hương của
vua Y Tôn, từ đó mà khởi lên vọng niệm danh lợi để rồi cuối cùng phải chịu nhiều
tai vạ và khổ đau. Ngài Hiếp Tôn Giả một đời chỉ ngồi trên một chiếc chiếu,
ngài Cao Phong Diệu Thiền Sư ba năm không ngồi giường cao là vì sao! Vì hiểu rõ
sự ngồi sang, nằm tốt làm cho con người tăng thêm dục vọng khổ đau nên đức Phật
chế ra giới nầy. Chúng ta là Phật tử tại gia nếu chưa làm được hàng ngày thì
nên thực hành vào những ngày thọ giới Bát quan trai một cách triệt để, như vậy
mới xứng đáng được phần nào với hai chữ Phật tử.
8. Không được ăn quá giờ ngọ:
Trong kinh Phật dạy: "Chư thiên ăn buổi sáng, chư Phật thọ
trai giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, quỷ ăn vào buổi tối, xuất gia học Phật
không được ăn sai ngọ" . Ăn đúng ngọ sẽ được những điều lợi ích sau đây:
a)
Ít
móng tâm sai quấy.
b) Ít buồn ngủ.
c)
Dễ
được tịnh tâm
d) Nhẹ bụng, khinh an.
e)
Thân
tâm an ổn, ít sanh bệnh.
Nếu bị bệnh, Phật tử được phép dùng sau
giờ ngọ nhưng phải sanh lòng hổ thẹn khi ăn. Người thọ giới Bát quan trai nên
giữ gìn 8 điều này cẩn mật để có được lợi ích cho mình và cho mọi người, trong đời
hiện tại cũng như vị lai.
C.
KẾT LUẬN:
Bát quan trai giới là một phương pháp
tu hành vô cùng thiết thực và có lợi ích cho người Phật tử tại gia, tuy chỉ một
ngày một đêm nhưng còn quý gấp bội phần đối với những người cả đời không biết
tu tập. Phương pháp này hầu như phù hợp với tất cả mọi căn cơ, trình độ, bất cứ
ai cũng có thể thực hành được. Một ngày đêm chính là nền móng cho nhiều ngày,
tháng về sau và dần dần thực hành như vậy sẽ đưa đến kết quả lớn, lợi ích lớn,
nếu thực hành suốt đời thì công đức sẽ tăng trưởng vô lượng. Cụ thể như:
§ Nhờ giới thứ nhất, không sát sanh, chúng ta sẽ không bị nặng nề bởi mùi tanh hôi của
cá thịt, chúng ta không giết hại thì thân tâm sẽ được nhẹ nhàng, không làm tăng
trưởng ác tính. Đặc biệt nghiệp sát sanh nhờ vào sự thọ trì giới Bát quan trai
nầy mà có thể được tiêu trừ, thiện nghiệp phát sinh và ưa thích phóng sanh nữa.
§ Nhờ giới thứ hai, không trộm cướp, tâm tư chúng ta sẽ được hồn nhiên, vô tư vì tâm
tham lam không hiện hữu, không cảm thấy lo sợ bởi hành động trộm cướp, tâm tư
lúc nào cũng được thư thái, nhẹ nhàn.
§ Nhờ giới thứ ba, không dâm dục, chúng ta sẽ luôn luôn được thanh tịnh, không gây
thù kết oán, không phá vỡ hạnh phúc của kẻ khác, giúp cho chúng ta sáng suốt để
dễ dàng tiếp thu giáo pháp của đức Phật.
§ Nhờ giới thứ tư, không nói dối, tâm chúng ta sẽ không tà vạy, luôn luôn ngay thẳng,
chơn thật. Đối với những người xung quanh chúng ta giữ được chữ tín, mọi người
sẽ không còn nghi ngờ ta nữa.
§ Nhờ giới thứ năm, không uống rượu, tâm chúng ta sẽ luôn luôn được tỉnh táo, thân
không bị loạn động, không làm cho tổn hại sức khỏe và không đoạn mất chủng trí
Phật.
§ Nhờ giới thứ sáu, không trang sức, múa hát và xem múa hát,
tâm chúng ta sẽ không bị
buông lung theo dục lạc, không bị lôi cuốn bởi những thú vui làm tán loạn tâm
trí, mất tín tâm Phật, Pháp, Tăng, và luôn luôn quán rõ thân nầy vô thường nên
không ít phiền não, khổ đau.
§ Nhờ giới thứ bảy, không được nằm giường qúa cao rộng và đẹp, tâm chúng ta sẽ rời bỏ
những tạp niệm ưa thích cao sang phù phiếm, rời bỏ nếp sống phóng túng, truỵ lạc
nhiễm ô.
§ Nhờ giới thứ tám, không ăn quá giờ ngọ, tâm chúng ta được sáng suốt, thân được nhẹ
nhàng, ít bệnh tật, không gây sự thèm khát cho những người nghèo khó, cũng như ngạ quỷ, súc sanh...