PHẬT HỌC » NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
Luận Giải “Luyện Tâm Bát Đoạn” (tiếp theo & hết)
| Friday, 05.05.2023, 09:04 AM | (355 Xem)
Kệ Số 7: Nhận Khổ Và Cho Vui
Tựu trung, nguyện hiến dâng trực
tiếp và gián tiếp hạnh phúc và lợi lạc cho tất cả những bà mẹ, và nguyện âm thầm
nhận lấy mọi rắc rối và tai họa của họ.
Điều này đề cập đến việc thực hành nhận lấy
mọi khổ đau của người khác, và trao cho họ tất cả hạnh phúc của mình (tonglen),
được thúc đẩy bằng lòng từ bi mạnh mẽ.
Bản thân
ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ, và có thể thấy tất cả những chúng sinh
khác cũng đều muốn như vậy. Ta cũng có thể thấy chúng sanh bị choáng ngợp vì
đau khổ, nhưng không biết cách làm sao để thoát khổ. Dựa vào đó, ta sẽ nảy sinh
ra ý định nhận lấy mọi khổ đau cùng ác nghiệp của họ, và cầu cho nó trổ trên
mình ta ngay lập tức. Tương tự như vậy, rõ ràng là những chúng sanh khác thiếu
hạnh phúc mà họ đang tìm kiếm, và không biết cách làm thế nào để tìm ra nó. Do
đó, ta sẽ trao tặng cho họ mọi niềm hạnh phúc của mình - thân thể, sự giàu sang
và thiện nghiệp của mình – mà không keo kiệt chút nào, và cầu nguyện cho những
điều này trổ trên mình họ ngay lập tức.
Tất
nhiên, có rất ít cơ hội là ta có thể thật sự nhận được nỗi khổ của người khác,
và cho họ hạnh phúc của mình. Khi sự hoán chuyển như vậy giữa các chúng sanh
xảy ra, thì đó là kết quả của mối tương quan duyên nghiệp rất mạnh mẽ trong quá
khứ giữa hai bên. Tuy nhiên, pháp thiền này là một phương tiện rất mạnh mẽ để
xây dựng lòng can đảm, nên nó là một pháp tu vô cùng lợi lạc.
Trong Luyện Tâm Thất Điểm (Seven Point Mind Training),
Geshe Chekawa nói rằng, “Hãy hành trì cả hai việc luân phiên cho và nhận, nương
theo hơi thở.”. Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng điều này cần được thực hiện
một cách bí mật. Ngài Tịch Thiên cũng nói như vậy, trong Nhập Bồ Tát Hạnh (VIII
120):
Do đó, bất cứ ai muốn tu tập quy
y một cách nhanh chóng cho tự thân và tha nhân thì phải tu tập mật pháp hoán
chuyển ngã tha thiêng liêng nhất.
Việc tu
tập này được gọi là “bí mật”, hay “ẩn mật”, vì nó không phù hợp với tâm thức
của chư Bồ tát sơ cơ, vì đó là điều chỉ dành cho một vài hành giả chọn lọc mà
thôi.
Ở những
phần khác trong Nhập Bồ
Tát Hạnh (VIII 126cd) thì ngài Tịch Thiên nói rằng: “Khi làm
khổ tự thân vì mục tiêu của người khác, tôi sẽ thành tựu tất cả vinh quang.”.
Tuy nhiên, trong Bảo
Hành Vương Chánh Luận (11) thì ngài Long Thọ nói rằng “(Hành
trì) Phật pháp không chỉ thông qua việc hành hạ thân xác.”. Những điều này
không mâu thuẫn. Khi Tịch Thiên nói rằng cần phải đau đớn hay làm hại chính
mình, thì điều này không có nghĩa là phải tự đánh vào đầu mình, hay làm điều gì
tương tự như vậy. Ý của ngài Tịch Thiên là khi những tư tưởng ái ngã mạnh mẽ
phát sinh thì ta phải đấu tranh rất mạnh mẽ với chính mình, và sử dụng những
pháp đối trị mạnh mẽ để điều phục chúng. Nói cách khác là phải làm hại tâm ái
ngã của mình.
Phải
phân biệt rõ ràng giữa cái “tôi” hoàn toàn bị ám ảnh vì phúc lợi của chính
mình, và cái “tôi” sẽ đạt được giác ngộ. Có một sự khác biệt lớn. Ngoài ra, cần
phải xem vần kệ này của Tịch Thiên trong bối cảnh của những vần kệ đi trước,
theo ngữ cảnh của nó.
Có rất nhiều cách khác nhau để bàn luận về cái “tôi”: có tâm chấp thủ về một cái “tôi” thật sự hiện hữu; có tâm ái ngã về một cái “tôi”; có một cái “tôi” mà mình sử dụng, khi nhìn vào sự việc từ quan điểm của người khác; và vân vân. Cần phải xem việc thảo luận về bản ngã, cái “tôi”, trong những bối cảnh khác nhau.
Nếu như nó thật sự làm lợi lạc cho người khác, nếu nó làm lợi ích cho chỉ một
chúng sanh thôi, thì ta cũng nên tự mình gánh chịu nỗi khổ của ba cõi trong
luân hồi, hoặc đọa vào một trong những tầng địa ngục, và phải có lòng can đảm
để thực hiện điều này. Để đạt được giác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sanh
thì mình phải hoan hỷ và sẵn sàng trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp trong địa
ngục Vô Gián, là địa ngục thấp nhất. Đây là ý nghĩa của câu 'bằng cách gánh lấy
những điều hãm hại người khác cho mình'.
Vấn đề
là có lòng can đảm để sẵn sàng đi đến một trong những tầng địa ngục; điều đó
không có nghĩa là mình phải thật sự đến đó. Khi Kadampa Geshe Chekawa sắp viên
tịch thì đột nhiên ngài gọi các đệ tử và bảo họ chuẩn bị các lễ vật, nghi lễ
cầu nguyện đặc biệt cho ngài, bởi vì pháp tu của ngài không thành công. Các đệ
tử rất buồn, vì nghĩ rằng điều gì khủng khiếp sắp xảy ra. Tuy nhiên, ngài Geshe
giải thích rằng tuy suốt đời, ngài đã cầu nguyện để được sinh ra trong địa ngục
vì lợi lạc của chúng sanh, nhưng giờ đây, ngài đã nhận được một linh kiến thanh
tịnh về những điều sẽ xảy ra. Ngài sẽ được tái sinh trong một tịnh độ, thay vì
địa ngục, và đó là lý do mà ngài buồn rầu.
Cũng như vậy, nếu như có ước nguyện mạnh mẽ và chân thành để được tái sinh trong những cõi tồi tệ hơn vì lợi lạc của tha nhân, thì mình sẽ tích tập vô lượng công đức, tạo ra kết quả ngược lại. Đó là lý do tại sao tôi luôn nói, nếu như phải ích kỷ thì nên ích kỷ một cách khôn ngoan. Lòng ích kỷ hẹp hòi chỉ khiến mình đi xuống; trong khi lòng ích kỷ khôn ngoan lại đưa mình đến Phật quả. Đó thật sự là điều khôn ngoan!
Chẳng may là điều trước tiên mà mình thường làm là sinh tâm luyến ái với Phật quả. Từ kinh điển thì ta sẽ hiểu rằng nếu muốn đạt được Phật quả thì cần có bồ đề tâm, và nếu không có bồ đề tâm thì không thể giác ngộ. Vì vậy nên mình sẽ miễn cưỡng nghĩ rằng, “Mình muốn đạt Phật quả; nên phải tu tập bồ đề tâm.”. Thật ra, chúng ta không quá quan tâm đến bồ đề tâm như cách mình quan tâm đến Phật quả. Điều này hoàn toàn sai. Nên làm ngược lại, quên đi động lực ích kỷ và nghĩ cách làm thế nào để giúp đỡ người khác.
Nếu như thật sự bị đọa vào địa ngục thì ta không thể giúp đỡ người khác, cũng
như bản thân mình. Làm sao mình có thể giúp ai? Ta sẽ không chỉ giúp đỡ chúng
sanh bằng cách cho họ những thứ bằng vật chất, hay thực hiện phép mầu, mà là
thuyết Pháp cho họ. Tuy nhiên, trước tiên, mình phải có đủ điều kiện để thuyết
Pháp. Hiện nay thì mình không thể giải thích toàn bộ đường tu, tất cả các pháp
tu và kinh nghiệm mà một người cần phải trải qua, từ giai đoạn đầu cho đến giai
đoạn cuối, đó là giác ngộ. Có lẽ ta có thể giải thích một vài giai đoạn đầu,
bằng kinh nghiệm của bản thân, nhưng không có gì nhiều hơn nữa. Để có thể giúp
đỡ người khác một cách sâu rộng nhất, bằng cách dẫn dắt họ trên suốt đường tu
đến giác ngộ thì trước tiên, chính mình phải đạt giác ngộ. Đây là lý do thích
hợp đối với cảm giác là mình phải tu tập bồ đề tâm. Điều này hoàn toàn khác với
cách tiếp cận vị kỷ thông thường hơn, với lòng ích kỷ chỉ quan tâm đến giác ngộ
cho riêng mình, mà ta sẽ nghĩ đến tha nhân và hiến dâng lòng mình cho họ với bồ
đề tâm, chỉ vì mình cảm thấy bắt buộc phải làm như vậy. Cách suy nghĩ như vậy
là hoàn toàn sai lầm, là điều dối trá.
Kệ Số 8: Chứng Ngộ Vạn Pháp Như Huyễn, Để Khắc
Phục Buồn Phiền Vì Bát Phong
Với tâm thức trong sạch, không ô
nhiễm vì bát phong, đối với tất cả những điều này, và thấu hiểu vạn pháp như
huyễn, nguyện cho con thoát khỏi sự ràng buộc, không bám chấp.
Vần kệ
này liên quan đến trí phân biệt, hay trí tuệ. Tất cả các hành trì đi trước
không được ô nhiễm vì những khái niệm liên quan đến bát phong, hay gọi là “tám
pháp thế gian” - khen hay chê, nghe tin tốt hay xấu, được hay mất, và mọi việc
suôn sẻ hay tệ hại.
Tám điều
này có thể được gọi là trắng, đen hay hỗn hợp. Cảm giác quá phấn khởi khi mình
trải nghiệm điều đầu tiên trong mỗi cặp, hay quá buồn phiền khi trải nghiệm
điều thứ hai trong mỗi cặp là bát phong đen, khi nó sinh khởi vì lòng tham
luyến hạnh phúc của đời này, cùng với tâm ái ngã và chấp thủ vào một cái “tôi”
thật sự tồn tại. Bát phong hỗn hợp là khi nó sinh khởi mà không có chút lòng
tham luyến nào như vậy, nhưng vẫn có hai động lực sau. Bát phong trắng là khi
nó phát sinh mà khi không có lòng tham luyến hạnh phúc của đời này và tâm ái
ngã, mà chỉ vì tâm chấp thủ vào một cái “tôi” thật sự tồn tại. Nhưng tôi nghĩ
rằng nếu như tôi giải thích câu kệ này một cách đơn giản, từ quan điểm của
những pháp tu được mô tả trong bảy vần kệ đầu, khi chúng được tu tập mà không
bị ô nhiễm vì khái niệm mà dựa vào đó, mình chấp vào một cái “tôi” thật sự tồn
tại, khi đối diện với bát phong trong cuộc sống: khen, chê và vân vân, thì cũng
ổn thôi.
Làm cách
nào để công phu của mình không bị ô nhiễm theo cách này? Bằng cách nhận ra tất
cả các pháp nào tồn tại đều là ảo ảnh, do đó, bằng cách không chấp rằng chúng
có sự tồn tại thật sự được thiết lập. Theo cách này, ta sẽ thoát khỏi sự ràng
buộc của tâm chấp thủ và bám chấp này.
Tuy
nhiên, cần phải rõ ràng về chữ “huyễn ảo” có nghĩa là gì ở đây. Sự tồn tại được
thật sự thiết lập sẽ hiện ra trong tâm mình, theo khía cạnh của nhiều đối tượng
khác nhau, bất cứ nơi nào mà chúng hiển lộ. Nhưng trên thực tế thì không có sự
tồn tại thật sự được thiết lập ở đó. Nói cách khác là đối với mình thì các pháp
hiện ra như là chúng có tự tánh, mặc dù không có pháp nào là có tự tánh cả, nên
đó là một ảo ảnh. Điều này có nghĩa là tuy vạn pháp có vẻ như tồn tại một cách
chân thật, nhưng chúng đều không có sự tồn tại bất khả như vậy.
Việc
lãnh hội điều này đòi hỏi một sự hiểu biết vững chắc và quyết đoán, chứng ngộ
đúng đắn về Không tướng (tánh Không), sự trống rỗng của các hiện tướng. Trước
tiên, cần phải xác định rằng vạn pháp đều không có sự tồn tại được thiết lập một
cách chân thật, có thể được tìm thấy. Sau đó, khi bất cứ điều gì có bản chất vô
tự tánh mà lại hiện ra như một pháp có tự tánh, thì ta sẽ bác bỏ cách tồn tại
bất khả đó, bằng cách nhớ lại chứng ngộ trước đó về sự vắng bóng của các pháp
có tự tánh. Khi kết hợp hai thứ này với nhau - sự xuất hiện của các pháp có tự
tánh, thật sự được thiết lập, có thể được tìm thấy, và bản chất vô tự tánh của
chúng, như đã được kinh nghiệm trước đây – thì ta sẽ khám phá ra bản chất huyễn
ảo của vạn pháp. Do đó, sự xuất hiện của các pháp thật sự được thiết lập, có
thể tìm thấy là một ảo ảnh, bởi vì chúng có vẻ hiện hữu theo cách mà thật ra
thì không hề hiện hữu như vậy. Chúng chỉ được thiết lập đơn thuần bằng duyên
sinh.
Làm cách nào mà một cái gì không thể được tìm ra, và sự tồn tại của nó được thiết lập chỉ do duyên khởi, mà lại hoạt động được. Đó là điều rất khó hiểu. Nếu ta có thể chứng ngộ rằng sự tồn tại của cả tác nhân và hành động đều được thiết lập, chỉ vì lý do chúng là các pháp phụ thuộc lẫn nhau, và không thể tự chúng tồn tại và hoạt động một mình, thì tánh Không sẽ xuất hiện về mặt duyên sinh. Đây là điều khó hiểu nhất. Nếu mình đã chứng ngộ một cách đúng đắn rằng sự tồn tại không được thiết lập bằng tự tánh có thể được tìm thấy - nói cách khác là sự tồn tại không thể được tìm thấy một cách cố hữu - thì kinh nghiệm về các đối tượng tồn tại đã tự chúng nói lên điều đó. Sự tồn tại của chúng được thiết lập bằng tự tánh, có thể được tìm thấy, đã bị Nhân minh học bác bỏ. Nhân minh học đã thuyết phục chúng ta là không có cách nào mà các pháp có thể có một tự tánh, có thể được tìm thấy, mà lại giải thích cho sự tồn tại của chúng. Tuy nhiên, chắc chắn là các pháp có tồn tại, bởi vì mình trải nghiệm chúng một cách hợp lệ.
Vậy thì chúng tồn tại ra sao? Nói cách khác thì điều gì thiết lập hay giải thích cho sự tồn tại của chúng? Sự tồn tại của chúng được thành lập hay được xem là sinh khởi chỉ phụ thuộc vào tên gọi. Điều này không nói rằng các pháp hoàn toàn không tồn tại. Người ta không bao giờ nói rằng pháp không tồn tại. Điều được nói ở đây là sự tồn tại của sự vật chỉ có thể được thiết lập dựa vào tên gọi. Đây là một điểm khó, điều mà chúng ta chỉ có thể từ từ hiểu được, thông qua kinh nghiệm.
Trước
hết, cần phải phân tích xem liệu các pháp có thật sự tồn tại hay không. Điều
này có nghĩa là phân tích xem sự tồn tại của chúng có thật sự được thiết lập,
hay được biểu hiện bằng điều gì đó, có thể được tìm thấy từ phía chúng, hay nói
một cách đơn giản hơn là liệu các pháp có thật sự được tìm thấy hay không.
Nhưng thật ra thì mình không thể tìm thấy bất cứ điều gì thiết lập sự tồn tại
của các pháp từ phía chúng. Trên thực tế thì không thể tìm thấy bất cứ điều gì:
không có điều gì có thể được tìm thấy. Tuy nhiên, nếu như nói rằng các pháp
hoàn toàn không tồn tại thì đó là một sai lầm, bởi vì mình có kinh nghiệm về
các thứ. Nói cách khác là tuy không thể chứng minh một cách hợp lý rằng các
pháp có sự tồn tại được thiết lập thật sự, có thể tìm thấy, nhưng ta cũng biết
bằng kinh nghiệm là chúng có tồn tại. Vì vậy, chắc chắn là ta có thể kết luận
rằng các pháp có tồn tại.
Bây giờ,
nếu như các pháp tồn tại, thì chỉ có hai cách mà sự tồn tại của chúng có thể
được thiết lập: từ chính phía chúng, bằng tự lực của chúng, hay bằng tha lực
của những yếu tố khác - nói cách khác thì một là hoàn toàn độc lập, hai là do
duyên sinh. Vì Nhân minh học bác bỏ sự tồn tại của sự vật có thể được thiết lập
một cách độc lập, bằng tự lực của chúng, nên cách duy nhất mà sự tồn tại của
chúng có thể được thiết lập là phụ thuộc vào những yếu tố khác.
Các pháp
dựa vào điều gì để thiết lập sự tồn tại của chúng? Chúng phụ thuộc vào nền tảng
của sự định danh, và một khái niệm, sự dán nhãn hay định danh cho nó. Nếu các
pháp có thể được tìm thấy khi mình tìm kiếm chúng, thì sự hiện hữu của chúng
phải được thiết lập bằng tự tánh của chúng. Trong trường hợp đó thì việc Kinh
điển Trung đạo nói rằng sự tồn tại của các pháp không được thiết lập bằng tự
tánh của chúng sẽ sai lầm. Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm ra các pháp, khi
tìm kiếm chúng, vì không thể tìm thấy bất cứ điều gì từ phía chúng tạo ra sự
tồn tại của chúng. Thế thì điều mà mình khám phá ra là sự tồn tại của các pháp
chỉ được thiết lập bằng tha lực của các yếu tố khác, cụ thể là bằng mãnh lực
định danh.
Chữ “chỉ đơn thuần” ở đây cho thấy điều gì đang bị loại bỏ. Nhưng điều bị loại
bỏ không phải là cái tên, cũng không phải là điều mà cái tên đó biểu thị, có
nghĩa là đối tượng của nhận thức hợp lệ. Chúng ta không nói rằng cái tên không
biểu thị hay đề cập đến bất cứ điều gì, hay đối tượng được định danh không phải
là đối tượng của nhận thức hợp lệ. Điều mà chữ “chỉ đơn thuần” loại bỏ là sự
tồn tại của các pháp được thành lập bằng điều gì khác, ngoài mãnh lực của danh
xưng. Sự tồn tại của các pháp được thiết lập chỉ đơn thuần bằng danh xưng;
nhưng danh xưng nói về một cái gì đó, và cái mà nó đề cập đến là đối tượng của
nhận thức hợp lệ.
Do đó,
bản tánh thật sự của các pháp là sự tồn tại của chúng chỉ được thiết lập bằng
tên gọi. Không có khả năng nào khác, chỉ duy danh mà thôi. Nhưng điều đó không
có nghĩa là ngoài cái tên ra thì không có gì hết. Có những hiện tượng, có những
đối tượng được đặt tên, và có tên gọi. Điều gì thiết lập sự tồn tại của các đối
tượng là nền tảng của sự định danh? Sự tồn tại của chúng cũng được thiết lập
đơn thuần bằng mãnh lực của sự định danh.
Theo
Trung Quán Cụ Duyên (Prasangika Madhyamaka), tri kiến cao nhất và chính xác
nhất, thì dù điều gì là một đối tượng bên ngoài, hay một ý thức bên trong nhận
thức đối tượng đó, thì tình huống cũng vậy. Sự tồn tại của cả hai chỉ được
thiết lập bằng mãnh lực của dang xưng; cả hai đều không có sự tồn tại thật sự
được thiết lập, có thể tìm thấy. Sự tồn tại của những tư tưởng và khái niệm
cũng được thiết lập đơn thuần bằng tên gọi, cũng như trong trường hợp của tánh
Không, Đức Phật, tốt, xấu và dửng dưng. Sự tồn tại của vạn pháp, của tất cả mọi
thứ, được thiết lập chỉ bằng mãnh lực của tên gọi.
Khi nói
“duy danh”, thì điều này sẽ loại bỏ sự tồn tại của những đối tượng không chỉ
đơn thuần được thiết lập bằng danh xưng. Không có cách nào để hiểu “duy danh”
có nghĩa là gì, ngoài điều này ra. Tuy nhiên, hãy xem xét một người thật và một
người ảo. Cả hai đều giống nhau ở chỗ sự tồn tại của chúng chỉ có thể được
thiết lập đơn thuần bằng tên gọi dành cho chúng. Nhưng có một sự khác biệt giữa
hai điều này. Bất cứ điều gì tồn tại hay không tồn tại đều có thể được định
danh, và chỉ có vậy thôi. Chúng ta có thể dán nhãn “người thật” và “người ảo”
trong tâm thức của mình. Nhưng về mặt tên gọi thì một số tên đề cập đến những
pháp tồn tại, và một số thì không. Cái tên “người thật” nói về một cái gì có
tồn tại, trong khi cái tên “người ảo” thì không đề cập đến bất cứ điều gì tồn
tại - nó nói về điều gì không hiện hữu.
Tóm Tắt
Khi nhận
ra rằng những người khó khăn, những lời khắc nghiệt và hành vi hiểm ác mà họ nhắm
vào mình tựa như ảo ảnh, thì ta sẽ không còn vọng tưởng cho rằng họ thật sự tồn
tại, và có thể được tìm thấy như những người, lời nói hay hành vi tồi tệ có tự
tánh. Chúng không tồn tại theo những cách bất khả. Sau đó, khi thấy rằng những
khái niệm và từ ngữ, hoặc danh tánh mà mình dán nhãn và định danh cho
những người này sẽ ảnh hưởng đến cách mình nhìn họ, thì ta có thể chuyển hóa
thái độ đối với họ, bằng cách gọi họ như những viên ngọc như ý. Khi nhìn họ như
vậy thì ta sẽ xem việc gặp gỡ họ như cơ hội quý giá để phát triển những phẩm
chất tốt đẹp, như nhẫn nhục và khiêm tốn./.