PHẬT HỌC » PHẬT HỌC KHÁI LƯỢC
TỨ NHIẾP PHÁP
| Thursday, 09.03.2023, 05:41 AM | (246 Xem)
TỨ NHIẾP PHÁP
A. MỞ ĐỀ:
Đức Phật
sau khi thành đạo liền nghĩ đến việc hóa độ chúng sanh. Nhưng giáo lí của Ngài
thì thậm thâm vi diệu mà căn cơ chúng sanh thì bất đồng, rất khó giáo hóa giáo
nghĩa vô thượng. Nghĩ thế Ngài liền khai mở Tam thừa, vận dụng tám vạn bốn ngàn
pháp môn để tiện việc giáo hóa, nhờ vậy mà trong vòng 45 năm thuyết pháp, Ngài
đã thành công. Người muốn tu hạnh tự lợi thì Ngài dạy Thanh văn thừa, người
muốn tu hạnh lợi tha thì Ngài dạy Bồ tát thừa...một trong những phương pháp
giáo hóa hữu hiệu nhất đó là Tứ nhiếp pháp. Tứ nhiếp pháp được xem là một nghệ
thuật cảm hóa lòng người ưu việt nhất. Nghệ thuật ở đây không phải là mưu chước
mà là một hành động có sức giáo hóa mãnh liệt. Người nào thực hiện được Tứ
nhiếp pháp thì người đó thành công trong mục đích cảm hóa lòng người. Với ý
nghĩa đó, Phật giáo lấy Tứ nhiếp pháp để làm công cụ nhiếp hóa chúng sanh, nhờ
vậy mà thành tựu được tinh thần khế cơ, khế lí, giáo hóa vô lượng chúng sanh.
B. CHÁNH ĐỀ:
I. Định Nghĩa:
Tứ nhiếp pháp là gì? Đó là Bố thí nhiếp, Ai
ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp, Đồng sự nhiếp. Bố thí là sự ban bố của cải vật chất
hoặc ban bố giáo pháp...Ai ngữ là lời nói êm ái, dịu dàng, làm cho người nghe
thích thú. Lợi hành là làm lợi ích cho người khác bằng hành động, lời nói hoặc
ý nghĩ... Đồng sự là bằng mọi cách để gần gũi, tham gia vào công việc của người
ta để dễ bề giáo hóa họ.
II. thực hiện Tứ nhiếp pháp:
1) Bố thí nhiếp:
Là nhiếp hóa chúng sanh bằng cách bố thí. Hạnh
bố thí là hạnh của Bồ tát, là một trong sáu pháp Ba la mật của hàng Bồ tát.
Lòng ích kỉ của chúng sanh là nguyên nhân
chính của mọi cuộc chiến trên thế giới, mọi cảnh tượng nồi da xáo thịt của
chiến tranh đều bắt nguồn từ lòng ích kỉ. Ở đâu cũng vậy, hễ lòng tham lam, ích
kỉ còn thì còn hỗn loạn, chiến tranh. Những âm mưu thủ đoạn trên tình trường,
thương trường hay chiến trường đều là hậu quả của lòng ích kỉ. Đạo Phật vì muốn
đem lại an ổn cho chúng sanh mà dạy phương pháp bố thí. Bố thí có ba loại.
a.
Tài thí:
Là bố thí bằng vật chất, tiền tài cứu vớt
người thiếu thốn, hoạn nạn. Trần gian kẻ giàu người nghèo là chuyện thường, có
người giàu ăn không hết, có kẻ nghèo làm không ra. Người thì thiếu ăn, kẻ thì
thiếu mặc...Người Phật tử có bổn phận giúp đỡ những người đó, có tiền thì giúp
tiền, có gạo thì giúp gạo, có thuốc thang thì giúp thuốc thang ...nói chung có
gì thì giúp nấy. Cổ nhân thường nói: "Miếng
khi đói bằng gói khi no, của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn vàng". Bởi thế,
chúng ta đừng ngại không có tiền kho bạc đống, ngọc ngà châu báu để bố thí mà
ngại không có tấm lòng thương người, xót vật. Dù chỉ một chút tiền của mà thành
tâm bố thí thì công đức ấy cũng không thể lấy gì so sánh được. Chúng ta đừng
bao giờ nghĩ mình nghèo không đủ khả năng bố thí rồi sanh lòng tự ti mà trở nên
hẹp hòi. Một bát cơm, một bát nước, một bộ áo quần cũ lẽ nào chúng ta không
có.?
b.
Pháp thí:
Là bố thí bằng giáo pháp. Giáo pháp ở đây chỉ
cho giáo lí của Đức Phật và những bậc Thánh tức là chỉ cho Tam tạng kinh điển.
Pháp thí nghĩa là đem những giáo lí quý báu ấy, mà giảng dạy cho chúng sanh,
khiến họ sanh tâm hoan hỉ mà tu hành theo giáo lí Đức Phật. Pháp thí là cách bố
thí hữu hiệu nhất, có năng lực nhất. Chúng sanh đang mê mẫn trong ba nẽo sáu
đường, bị nghiệp thức dẫn dắt, không tự thức nghiệp duyên, vì thế mà cần sự
tỉnh thức. Người Phật tử bố thí bằng giáo pháp tức là làm cho chúng sanh thấy
được luật nhân qủa để tu hành thiện pháp, sớm thoát khỏi biển sanh tử, luân
hồi.
Pháp môn của Đức Phật có vô lượng, vì thế
người dùng giáo pháp mà bố thí cũng có vô lượng cách, chúng ta đừng tạ hạ thấp
mình cho rằng mình kém cõi Phật pháp, không thể bố thí pháp, một câu kinh câu
kệ một lời nói hợp với chánh pháp, có thể dùng để bố thí, khuyên người khác
tụng kinh, trì chú, bố thí, cúng dường, ăn chay, niệm Phật...cũng là một cách
bố thí pháp. Nói chung bất kì trường hợp nào người Phật tử cũng có thể bố thí
pháp được.
c.
Vô úy thí:
Là bố thí tâm không sợ hãi. Sợ hãi là tâm
thông thường của mọi chúng sanh trong cõi giả tạm đau khổ này. Người Phật tử
phải có lòng từ bi, cố gắng làm sao cho mọi người hết lo sợ. Cái sợ thông
thường nhất của mọi chúng sanh là đau ốm chết chóc, cái sợ tiếp theo là sợ gian
khổ đói nghèo. Giữa cuộc sống bình nhật người thì sợ chó kẻ sợ mèo, người sợ
ma, kẻ sợ tai nạn...trong những trường hợp đó người Phật tử phải bố thí cho họ
bằng nghị lực của mình, khuyên họ cố gắng lên để sống, mọi cái không có gì đáng
sợ, chết chóc là chuyện thường tình không ai tránh khỏi. Cổ nhân có dạy: "Nhân sanh thế thượng thùy vô tử"
(nghĩa là: người sống trong đời ai không chết).
Vậy, đau ốm, chết chóc có gì đáng sợ! Khi một người nào đó sắp chết thì một
Phật tử phải khuyên họ niệm Phật A-di-đà, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, Địa
Tạng...để có lòng tự tin khi phải đối mặt với tử thần. Nói chung trong mọi
trường hợp người Phật tử đều có thể tùy cơ ứng biến, bố thí tâm không sợ hãi
cho mọi người.
Tóm lại bố thí là phương pháp hữu hiệu để cho
người Phật tử tu tập. Bố thí làm cho chúng ta có công đức vô lượng, muốn có
công đức vô lượng thì phải có tâm vô lượng mà bố thí, tức là bố thí không còn
thấy mình nữa (vô tướng thí). Phương pháp cao nhất là Bố thí ba la mật. Chúng
ta có thể tu hạnh bố thí này để đạt đến Giải thoát, Niết bàn theo tinh thần
Kinh Kim Cang. Đã là Phật tử thì không thể không tu hạnh bố thí.
2) Ái ngữ nhiếp:
Ái ngữ tức là lời nói dịu dàng, êm ái. Ái ngữ nhiếp tức là dùng lời nói êm ái, dịu dàng
đúng chánh pháp để nhiếp hóa chúng sanh khiến họ theo mình mà tu hành thánh
đạo. Người đời phần nhiều ỷ quyền, cậy thế, hà hiếp dân lành, nói năng cộc cằn,
thô tục thiếu văn hóa, làm cho người nghe chán ghét không phục tùng. Cổ nhân có
dạy: “Lời nói chẳng mất tiền mua .Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Lời nói êm ái dịu dàng là một thứ của báu mà
bất cứ ai cũng có thể có được, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, lại rất dễ
thực hiện. Người Phật tử không những nói năng dịu dàng mà còn đúng Chánh pháp
nữa, như thế lời nói ấy mới đủ công năng nhiếp hóa người. Một lời nói tuy đơn
giản nhưng có thể làm cho chúng ta vinh quang, thành đạt và cũng có thể làm cho
ta tan gia bại sản, thân bại danh liệt như sách Nho nói "Nhất ngôn khả dỉ hưng bang, nhất ngôn khả dỉ tán bang" và người xưa cũng nói:"Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập", cái họa từ
miệng mà ra, bệnh tật từ miệng mà vào.
3)
Lợi hành nhiếp:
Là dùng lời nói hành
động ý nghĩ của mình để làm lợi cho mọi người, khiến họ sinh tâm hoan hỉ mà
theo ta học đạo. Lợi hành là việc làm của hàng Bồ tát, tuy nhiên trong cuộc
sống bình thường, chúng ta cũng có thể thực hiện được.chúng ta hẳn đã nghe qua
câu chuyện của Ngài Địa Tạng Bồ tát rồi chứ! Ngài suốt đời đắp đường, gánh đất
tạo mọi phương tiện thuận lợi cho khách bộ hành đi lại được đễ dàng. Ngài thấy
người già gắnh nặng, giúp trẻ đưa người qua sông, cứu nguy cho người đi thuyền
ngược nước...vì vậy Ngài đã nhiếp hóa vô số chúng sanh.
Lợi hành là công việc không phải khó, bất cứ
ai cũng có thể thi hành được, người nghèo thì lợi hành bằng lời nói ý nghĩ.
Người giàu thì bỏ tiền của để làm viện dưỡng lão, giúp đỡ hội người mù, ủng hộ
trẻ em khuyết tật, nuôi dưỡng trẻ mồ côi...người tài giỏi thì dạy nghề nghiệp,
người đức độ thì giáo dục luân lí...nói chung ai cũng có thể thực hiện pháp lợi
hành cả. Từ sự thực hiện pháp lợi hành đó, chúng ta có thể giáo hóa họ bằng
giáo lí Đức Phật, khiến họ trở về chánh pháp như giáo tu hành. Được vậy thì lợi
ích biết bao!
4)
Đồng sự nhiếp:
Là tìm mọi cách để làm công việc với người
khác, lăn lộn vào trong công việc của họ, cộng tác với họ cùng ăn cùng ở với họ
một mặc là giúp đở, một mặt là để nêu cao gương lành khiến họ cảm mến mà theo
ta tu đạo. Đó gọi là Pháp đồng sự.
Người lãnh đạo muốn thành công trong việc giáo
huấn người khác thì không thể không áp dụng nguyên tắc Đồng sự nhiếp. Nguyên
tắc này có thể áp dụng bất cứ ở đâu, trong thương trường, trong chiến trường,
tâm lí xã hội hay bất cứ chỗ nào cũng thế, làm sao để người khác thấm nhiễm đức
hạnh tốt đẹp của mình, sẵn sàng nghe theo làm theo những lời mình chỉ bảo, thì
chính mình đã thực hiện được Đồng sự nhiếp.
Tóm
lại, đối với những người cần sự giúp đỡ vật chất, kiến thức, an ủi, kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm tu tập... thì chúng ta áp dụng nguyên tắc bố thí để thu phục
và giảng dạy họ cho có kết quả.
Đối với những ai thích tâm lí ái ngữ, thích
nghe những lời nói dịu dàng, thì chúng ta dùng ái ngữ để cảm hóa, nhiếp phục
họ. Thông thường thì ai cũng thích ái ngữ và khó chịu với những lời nặng nề,
thiếu tế nhị. Người Phật tử phải vận dụng tâm lí ái ngữ trong cuộc sống của
mình.
Đối với những ai cần lợi hành cần khích lệ cần
sự ủng hộ trong công việc thì chúng ta phải vận dụng tâm lí lợi hành để giúp đỡ
họ, nhằm gióa hóa họ trở về chánh pháp.
Đối với những người có tâm lí cần đồng nghiệp,
cần có người cùng làm cùng ăn, cùng ở...thì chúng ta phải vận dụng tậm lí đồng
sự để nhiếp hóa họ trở về Chánh pháp.
Nhà lãnh
đạo, nhà giáo dục trong nghệ thuật vận dụng tâm lí để đạt mục tiêu giáo dục
không là gì khác hơn bốn nguyên tắc ấy. Chúng ta là Phật tử cũng phải tùy duyên
mà vận dụng bốn nguyên tắc ấy cho phù hợp.
III. lợi ích thực hiện Tứ nhiếp pháp:
Tứ nhiếp pháp được xem là một trong những bộ
môn tâm lí học Phật giáo. Nó vượt xa các quy tắc đắc nhân tâm mà một học giả
Tàu đã sáng tác. Đắc nhân tâm chỉ là những nguyên tắc sống tự lợi, nhằm để lấy
lòng người để làm lợi ích cho mình chứ không phải mang ý nghĩa như Tứ nhiếp
pháp ở đây. Tứ nhiếp pháp là bốn nguyên tắc sống hoàn toàn vị tha, có thể hi
sinh tất cả để nhiếp hóa mọi người nên chúng rất lành mạnh và hữu ích. Thực
hiện bốn nguyên tắc ấy thì chúng ta sẽ được lợi ích trên ba phương diện.
·
Về
phương diện cá nhân, chúng ta làm lợi cho mọi người nhưng thật chất là làm lợi
cho cả hai. Một hành động là một hạt giống của nghiệp qủa, làm một việc tốt thì
gieo vào đó một nhân lành. Việc làm của chúng ta được mọi người tán thán tôn
trọng thì nhất định chúng ta sẽ gặt hái được kết quả tốt.
·
Về
phương diện gia đình, chúng ta sẽ được gia đình, vợ con, bà con thân thuộc cảm
mến, quý trọng. Do đức độ giáo hoá mọi người, chúng ta sẽ là tác nhân chính làm
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình mình. Có thể vì cảm đức độ của mình mà gia
đình gia đình trở nên thuần lương, hướng thiện, trên thuận dưới hoà, hạnh phúc
không kể xiết.
·
Về
phương diện xã hội, thực hiện Tứ nhiếp pháp chính là làm phúc lợi cho xã hội,
hoán cải phần nào tệ đoan trong tình hình thực tại xã hội. Số lượng người tu
theo Tứ nhiếp pháp càng nhiều thì xã hội càng được cải tiến, tránh xa tai nạn
chiến tranh, đem lại sự thanh bình hạnh phúc cho xã hội. Chỉ một tiêu chuẩn này
thôi cũng đủ thấy sự tích cực của Phật giáo đối với xã hội nhân loại, đập tan
quan niệm ngoại đạo cho rằng Phật giáo là đạo vô thần, yếm thế, tiêu cực....
C. KẾT LUẬN:
Tứ nhiếp pháp là một pháp môn dùng để cải tiến con người và xã hội. Không có một phương pháp nào có tác dụng và hiệu quả như Tứ nhiếp pháp. Phật tử phải học tập và thực hành Tứ nhiếp pháp. Trong cuộc sống hiện tại chúng ta không đủ năng lực để thực hiện triệt để Tứ nhiếp pháp, chúng ta cố gắng từng bước thực hiện, để dần dần đi đến thực hiện rốt ráo. Tứ nhiếp pháp là hành tướng của từ bi và vị tha, không tu Tứ nhiếp pháp thì cũng đồng nghĩa với thiếu lòng từ bi và vị tha. Người con Phật mà thiếu lòng từ bi và vị tha thì sao còn gọi là Phật tử, làm sao tu hành để thành Phật! Vậy, Phật tử cần phải tu Tứ nhiếp pháp./.