PHẬT HỌC » PHẬT HỌC KHÁI LƯỢC
LỤC HÒA
| Monday, 06.03.2023, 05:35 AM | (261 Xem)
LỤC
HÒA
A. Mở đề:
Ca dao Việt nam có câu:
"Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."
Hay là:Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn
Đó là câu ca dao nói lên tinh thần đoàn kết và
sức mạnh của sự đoàn kết. Sức mạnh của sự đoàn kết là sức mạnh có thể giải
quyết được mọi vấn đề. Một gia đình đoàn kết là một gia đình lý tưởng, một xã
hội đoàn kết là một xã hội vững bền, một quốc gia đoàn kết là một quốc gia phát
triển. Một thế giới đoàn kết là một thế giới thanh bình. Nói chung, sự đoàn kết
là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Nếu
không có sự đoàn kết thì không thể có một tổ chức bền vững, không có một gia
đình êm ấm, không có một quốc gia hưng thịnh, thế giới không bao giờ thanh
bình. Sách nho có dạy: "Thời thế thuận không bằng địa thế lợi, địa thế
lợi không bằng nhân tâm hòa". Thế gian cũng nói: "Dĩ hòa vi
quý"... Như thế chúng ta cũng đã thấy được tầm quan trọng của sự đoàn
kết như thế nào!
Đức Phật, Ngài là bậc đại trí tuệ, luôn luôn
xem sự hòa thuận là yếu tố tối quan trọng trong sự tu tập và phát triển đoàn thể
tăng già, vì thế Ngài dạy pháp lục hòa, trước tiên là để thực hiện trong tăng
chúng, sau đó có thể áp dụng cho cả hàng cư sĩ lẫn tại gia. Lục hòa là sáu cách
cư xử tốt, có hiệu quả trong sự tương giao trên tất cả mọi mặt. Chúng ta có thể
áp dụng lục hòa bất cứ ở đâu và khi nào cũng đều có lợi ích cả.
B. Chánh đề:
I. Định nghĩa:
Lục hòa
còn gọi là lục hòa kính. Hòa hợp có hai nghĩa, 1- lý hòa, tức là cùng chứng một
chân lý tuyệt đối của đạo (Diệt lí), đó là sự hòa hợp của các bậc thánh giả
chứng đạo. 2- sự hòa, tức là sáu phép hòa kính thuộc về phàm tăng trước khi
chứng đạo. Lục hòa là phương pháp sống chung rất khoa học và thiết thực. Sống
đúng tinh thần lục hòa có thể đưa đến hạnh phúc an lạc và giải thoát. Đó là con
đường toàn thiện, toàn mỹ, dễ thực hiện và rất có lợi ích.
II. Lục hòa là gì?
1) Thân hòa đồng trú: tức là cùng sống dưới một mái nhà, trong một
tổ chức, trong một phạm vi. Trong Phật giáo thì thường chỉ cho phạm vi một ngôi
chùa, một ban, ngành, hoặc tổ chức Giáo hội. Trong đó, mọi người sống chung
nhau, cùng ăn, cùng ngủ, cùng nhau học tập, tu hành... Từ cổ chí kim, bất cứ
một tổ chức nào muốn tồn tại lâu dài thì điều thiết yếu nhất là phải sống chung
hòa hợp. Pháp "thân hòa" mang ý nghĩa như vậy. Trong một gia đình thì
trên thuận, dưới hòa, không lấn ép, đánh đập lẫn nhau, trong một tổ chức xã hội
thì phải lấy phúc lợi chung làm vấn đề nòng cốt. Nếu là Phật tử thì cùng nhau
tu học dưới một mái chùa, tuy là không anh em, ruột thịt nhưng cũng đều là
người con Phật, cùng một mục đích lý tưởng thì phải lấy hòa khí làm đầu. Nếu
còn chia phe cánh thì còn gì ý nghĩa là người con Phật nữa! Bởi thế, ca dao
việt nam có câu rất bình dị mà có ý nghĩa sâu sắc rằng: Bầu ơi thương lấy bí
cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Khác giống nhưng chung giàn
thế mà còn thương yêu nhau, huống hồ con người lại vốn có chung một giống nòi,
như thế mà không yêu thương nhau được hay sao! (Thực hành đồng sự và Lợi hành
nhiếp).
2) Khẩu hòa vô tránh: khẩu hòa tức là lời nói hòa hợp, lời nói hòa
hợp là lời nói nhẹ nhàng, êm ái, không là mích lòng người khác, lời nói có pháp
âm, pháp nghĩa, đem lại lợi ích cho người nghe mình nói. Lời nói hòa. hợp là lời nói đầy đủ ý nghĩa, không màu mè,
rườm rà. Có người thân hòa mà khẩu không hòa, so hơn tính thiệt từng lời nói,
tìm cách mỉa mai, châm chọc nhau, sách hạch nhau từng tiếng một, đó là nguyên
nhân gây ẩu đả, miệt thị nhau, thù hằn nhau. Trong gia đình, một lời nói thô lỗ
có thể đem lại sự tan vỡ trong gia đình. Giữa xã hội, vì một lời nói không ôn hòa
mà tàn sát lẫn nhau. Một lời nói xúc phạm, không tín nghĩa của các bậc lãnh đạo
quốc gia có thể đưa đến nạn chiến tranh giữa các nước trên thế giới... Bởi vậy,
bên cạnh sống thân hòa thì khẩu hòa cũng là điều cần thiết. Là người Phật tử,
hơn ai hết phải sống khẩu hòa để tránh những tai hoạ xảy ra như cổ nhân thường
dạy: "hoạ tùng khẩu xuất".(Thực hành Ái ngữ nhiếp).
3) Ý hòa đồng duyệt: ý là tác nhân chính của các hành động thân và
miệng. Ý nghĩ ác thì thân làm việc ác và miệng nói lời thô ác. Ý nghĩ thiện thì
thân hành thiện và miệng nói lời lương thiện. Cho hay, ý thức là điều tối quan
trong sự hành xử. Khi tâm tư của một người nào đó mẫn cảm, vui vẻ, thoải mái
thì lời nói và hành động của người đó kèm theo sự vui vẻ, mẫn cảm. Đó là nguyên
nhân đưa đến sự hòa hợp trong cuộc sống chung của tập thể, cũng là điều kiện
tiên quyết khiến người khác cảm mến và gần gũi mình. Muốn giữ cho ý hòa thì
phải tu hạnh hỷ xả, loại bỏ những sự hờn giận, không cố chấp và luôn luôn tha
thứ cho lỗi lầm của kẻ khác. (Thực hành Lợi hành, Đồng sự nhiếp).
4) Giới hòa đồng tu: ở đây, chữ giới chúng ta nên hiểu là danh từ
chỉ chung cho tất cả các nguyên tắc, thế gian cũng như Phật giáo. Trong Phật
giáo gọi là giới, ngoài xã hội thì gọi là nguyên tắc, pháp luật hay nội quy... tuỳ
mỗi xã hội mà có sự giới hòa khác nhau. Giới hòa tức cùng nhau thọ và giữ một
loại giới hay một loại nguyên tắc. Ví như trong Phật giáo thì có 250 giới cho
hàng Tỳ kheo tăng, 348 giới cho hàng Tỳ kheo ni, 10 giới cho Sa di, Phật tử tại
gia thì có Thập thiện giới, Tại gia Bồ tát giới, hay Ngũ giới... ngoài xã hội
thì có các loại nguyên tắc khác nhau, mỗi cơ quan, đoàn thê, trường học đều có
một nội quy riêng biệt, tuỳ theo hòan cảnh mà đặt ra. Trong đó, mỗi cấp bậc có
một loại nguyên tắc khác nhau. Giới hòa tức là mỗi cấp bậc cùng nhau giữ một
loại giới và đều có trách nhiệm như nhau, không được bỏ bất cứ một nguyên tắc
nào. Xuất gia thì có giới riêng của xuất gia, tại gia thì có giới riêng của tại
gia, thầy giáo thì có nguyên tắc riêng của thầy giáo, học trò thì có nội quy
riêng của học trò. Nếu ai không tuân theo các nguyên tắc chung đó thì nhất định
sẽ bị đào thải. (Thực hành Lợi hành, Đồng sự nhiếp).
5) Kiến hòa đồng giải: đó là sự hòa hợp trong cách nhận thức và giải
thích về sự vật, hiện tượng cũng như tâm lý. Tiêu chuẩn này không đòi hỏi mọi
người đều có trình độ như nhau nhưng đòi hỏi mọi người phải có tâm vị tha mà
trình bày cho nhau hiểu. Trong một tập thể, không ai có đủ khả năng thông hiểu
hết mọi sự mà mỗi người có mỗi sở trường riêng, mình phải đem sở trường của
mình lấp vào cái sở đoản của người khác, khi đó người khác mới đem sở trường
của họ bày vẽ lại cho mình. Như vậy, tập thể đó sẽ mỗi ngày mỗi tiến triển
trong sự hòa hợp vui vẻ. Ngược với tinh thần kiến hòa đồng giải là sự ích kỷ,
hẹp hòi, sống chỉ biết tư lợi, đó là nguyên nhân gây bất hòa, xung đột, xảy ra
tranh chấp, bè phái, nghi ngờ. Người Phật tử càng phải sống trong tinh thần
kiến hòa, vì kinh Phật có đủ loại, mỗi người chỉ có thể khám phá ra một khía
cạnh ý nghĩa nào đó, có thể đúng mà cũng có thể sai. Trong trường hợp đó, mọi
người cần phải thực hiện phép kiến hòa để giúp đỡ nhau học tập, đồng thời, đó
cũng là cách sống chung hòa hợp tốt nhất. (Thực hành Lợi hành, Đồng sự nhiếp).
6) Lợi hòa đồng quân: đây là pháp hòa hợp trong cuộc sống trên các
mặt ẩm, thực, vật dụng, tuy đơn giản nhưng khó thực hiện vì nó liên quan đến cá
tính con người. Lợi hòa đồng quân là sự quân bình, đều nhau, cùng chia nhau
những vật dụng như cơm nước, chăn chiếu, thuốc thang... lợi hòa không không chỉ
áp dụng cho một người, một nhóm người mà áp dụng cho cả một đoàn thể, một xã hội,
một quốc gia, sâu hơn nữa là áp dụng cho cả thế giới. Thế giới chiến tranh,
quốc gia suy bại, xã hội điêu đứng, đoàn thể phân tranh, gia đình đổ nát đều
một phần do sống không lợi hòa. Đức Phật, vì lòng từ bi, vị tha đã dạy cho
chúng ta sống: "có tài lợi nên tuỳ phận chia sớt cho nhau",
cao hơn nữa là: "lợi hòa đồng quân". Vậy, người Phật tử phải
cố gắng thực hành để có một cuộc sống hạnh
phúc, an lạc. (Thực hành Bố thí nhiếp).
C. Kết luận:
Pháp lục hòa là một phương pháp hổ trợ hữu
hiệu cho sự tu hành của chúng ta. Lục hòa là phương pháp sống, nghệ thuật sống
hòa hợp trong tất cả mọi trường hợp. Đối với người tại gia, pháp lục hòa là bí
quyết của hạnh phúc gia đình. Người nào thực hiện pháp lục hòa, người đó sẽ
thấy được chân giá trị của cuộc sống.
Người Phật tử không những xem pháp lục hòa là
nghệ thuật sống mà còn xem đó là phận sự phải thực hiện của mình, vì chúng hòan
toàn thuộc về mục đích giải thoát. Hướng đến mục đích giải thoát, hành giả phải
từng bước thực hiện pháp lục hòa./.