PHẬT HỌC » PHẬT HỌC KHÁI LƯỢC
LUÂN HỒI
| Saturday, 04.03.2023, 05:39 AM | (245 Xem)
LUÂN HỒI
A. Mở Đề:
Vấn đề sống chết của con người là một vấn đề
nan giải từ xưa đến nay, đã làm băn khoăn bao học giả của mọi thế hệ con người.
Trải qua mấy trăm triệu năm nay, kể từ khi con người có mặt trên trái đất,
những người thông minh của thế giới đã nỗ lực hết mình để nghiên cứu về con
người với mong muốn tìm ra một lời giải đáp thích hợp cho vấn đề: “Loài
người từ đâu đến và sẽ đi về đâu”. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề này vẫn
còn là một câu hỏi huyền bí. Các triết học gia tự cổ chí kim đã đem hết tài
năng, tài trí của mình để tìm lời giải đáp cho vấn đề này nhưng rốt cuộc họ vẫn
đi từ lầm lạc này đến lầm lạc khác. Các Tôn giáo trên thế giới cũng đã nỗ lực
hết mình để giải thích nhưng cũng chưa có một đáp án nào phù hợp.
Cho đến khi nhân loại thực sự biết đến Phật
giáo và nhất là xuất hiện sự khám phá Phật giáo của các ngành Triết học, Khoa
học, một giải thích hữu hiệu cho câu hỏi trên đã ra đời, đáp ứng vấn đề bấy lâu
nay đang còn khúc mắc. Thay vì trả lời câu hỏi trên, Phật giáo đã nỗ lực thuyết
minh giáo nghĩa luân hồi, nhằm đưa chúng sanh ra khỏi biển khổ, phủ nhận hai
thái cực Chấp thường và Chấp đoạn của ngoại đạo, khẳng định tuyệt đối quy luật
Nhân-quả trong tiến trình chuyển dịch của nghiệp.
B. Chánh Đề:
I. Luân hồi là gì?
Phạn ngữ là Samsera, Pàli là Samsara, tàu dịch
âm là Luân hồi, có nghĩa là sự chuyển sinh, tái sanh, đi đến. Luân nghĩa là
bánh xe, hồi nghĩa là quay tròn, người ta thường gọi là vòng luân hồi, vòng
sanh tử hay bánh xe luân hồi để diễn tả đường sanh tử không có đầu đuôi của mỗi
chúng sanh trong lục đạo.
Đã là bánh xe thì không có chỗ bắt đầu và chỗ
kết thúc, kiếp sống của con người cũng thế, có từ vô thỉ và tồn tại đến vô
chung. Giữa vô thỉ và vô chung, con người sống chết hằng sa kiếp số, tùy theo
nghiệp lực mà thụ sanh vào các cõi khác nhau. Có nhiều quan niệm không đồng
nhất về thuyết Luân hồi.
Thuyết Độc kiếp (Đoạn kiến) cho rằng, loài
người cũng như loài vật đều đựơc cấu thành từ những hình chất tuyệt đối. Khi
những hợp thể ấy tiếp nối luôn thì gọi là sống, khi những hợp thể ấy tan rã thì
gọi là chết do có phủ định về nội lực, vì thế họ chủ trương con người sẽ không
còn nghĩa lý gì khác khi các hình thể ấy tan rã, cũng như ngọn đèn bị tắt khi
dầu khô, tim hụt.
Thuyết Linh hồn bất tử (Thường kiến) thì quan
niệm trái lại, phủ định hoàn toàn thuyết đoạn kiến và chủ trương sanh mạng là
sự kết hợp của hai phần linh hồn và thể xác. Sau khi chết, thể xác có thể tan
rã nhưng linh hồn thì vĩnh viễn tồn tại, hoặc ở trên Thiên đường hưởng sự khoái
lạc đời đời, hoặc đọa xuống địa ngục chịu cực hình mãi mãi.
Nếu đứng về phương diện thần thoại cho rằng có
một Thần linh nắm cầm sinh mạng và thưởng phạt thì đó là một sự bất công vô lý.
Ví như quốc pháp có nghiêm khắc đến đâu cũng không thể kết án chung thân đối
với những tội nhân có tội trạng nặng nhẹ không đồng.
Hai thuyết trên đều không đúng. Con người và
vạn vật không thể một lần chết đi là vĩnh viễn không còn tồn tại, nếu như thế
thì thế giới này sẽ dần dần đi đến hủy diệt hoàn toàn. Loài người chết đi cũng
không thể hoặc là ở Thiên đường hưởng thú vui đời đời hoặc là đọa xuống địa
ngục chịu sự cực hình mãi mãi. Hai thuyết này hòan toàn không phù hợp với khoa
học. Ngành khoa học vật lý cho rằng: vạn vật luôn luôn vận động và không bao
giờ mất đi mà chỉ thay đổi từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức này sang
hình thức khác. Hai thuyết trên, một là rơi vào Chấp thường, hai là rơi vào
Chấp đoạn nên đã bị bác bỏ.
Theo Phật giáo: chúng sanh do Hoặc, Nghiệp
chết đi ở cõi này rồi sanh vào cõi khác, cứ liên tục như thế trong ba cõi gọi
là luân hồi. Con người và vạn vật đã sống, đang sống và sẽ sống mãi mãi. Kiếp
sống hiện hữu của chúng ta và sự vật chỉ là một chiếc cầu nối ngắn ngủi giữa vô
số kiếp đã qua của quá khứ và vô biên kiếp chưa đến ở tương lai. Dù con người
có tạo ác hay hành thiện trong một kiếp, khoảng thời gian ấy mà đối với thời
gian vô hạn thì đó chỉ như một hạt cát giữa biển cả vô cùng tận. Căn cứ vào
quảng đời nhỏ hẹp ấy mà định đoạt sự thưởng phạt vĩnh viễn cho loài người thì
thật là một điều bất công và tội ác.
II. Luật chuyển vận tương tục của sanh mạng (Luân hồi).
Sự luân
hồi diễn ra không phải ở kiếp này kéo sang kiếp khác mà ở ngay mỗi ý niệm. Một
ý nghĩ ác sanh khởi rồi diệt đi, một ý niệm thiện sinh ra rồi tan biến, một ý
niệm ác khác lại sanh khởi... cứ như thế sự luân hồi diễn ra trong từng ý niệm
của con người. “Đêm rất dài với kẻ mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi
mệt. Cũng thế, vòng luân hồi sẽ tiếp nối vô tận với những kẻ ngu si, không minh
đạt Chánh pháp”. (Pháp cú).
Chúng sanh hữu tình sở dĩ cứ luân hồi trong
tam đồ, ác đạo là do không ý thức được nghiệp duyên, tham sân si chồng chất.
Muốn chấm dứt luân hồi sanh tử thì không gì khác hơn là phải đoạn tận tham ái,
chấp thủ day diệt trừ tham sân si. Chúng ta hình dung sự luân hồi trong lục đạo
giống như một con tàu chuyển vận trên đường sắt, nó cứ vòng vèo qua lại mà
nhiên liệu để tạo năng lượng cho sự chuyển vận đó chính là tham sân si. Cho đến
khi nào tham, sân, si không còn thì khi ấy chúng ta mới thoát khỏi vòng luân
hồi. Nhưng khi nào tham, sân si còn thì vòng quay luân hồi sẽ còn quay đến vô
tận.
Trên đây chúng ta thấy rằng, con tàu dù chuyển
vận nhưng không bao giời rời khỏi đường tàu, sự luân hồi cũng thế, dù nối tiếp
liên tục nhưng không bao giời rời khỏi quy luật Nhân-quả. Sanh mạng con người sinh
diệt tương tục, khi làm người, lúc làm trời, khi ở địa ngục, lúc sanh thiên
giới cũng chuyển dịch vòng quanh (Luân hồi) trong sự chi phối của Nhân-quả, và
chủ thể của sự tương tục ấy chính là tâm. Tâm chính là chủ thể sanh mạng tạo
nên sự sống của những thân sau do nghiệp lực tác động. Bởi thế, sự luân hồi mặc
dầu tiến hóa theo vòng tròn xoắn ốc nhưng chưa định hướng tiến bộ hay thoái bộ
mà phải tùy thuộc vào sự tác động của tâm, có thể kiếp này làm người nhưng kiếp
sau làm thân súc sanh, có thể kiếp này làm thân súc sanh nhưng kiếp sau làm
được thân người cũng nên.
Qua sự phân tích trên đây chúng ta thấy rằng,
con người và sự vật không phải một lần chết đi là mất hẳn, càng không phải chết
đi rồi là ở mãi Thiên đường hay đọa vào địa ngục đời đời. Sự chết chẳng qua là
sự kết thúc một chuỗi đời ngắn ngủi để rồi sanh lại vào một nơi nào đó tùy theo
nghiệp lực của mình, cứ tiếp diễn như thế cho đến khi nào không còn tham ái,
chấp thủ thì luân hồi chấm dứt.
Thuyết Luân hồi tiến hóa phủ nhận sự tồn tại
vĩnh viễn, song ở một chỗ khác thì nhận có tâm linh tiến hóa trong sự chuyển
dịch từng giai đoạn một, từ hạ đẳng tiến dần theo chiều xoắn ốc mãi đến vô
cùng. Đứng trước một ngôi nhà đổ ta có thể thấy được ngôi nhà ấy đã thay đổi
trong từng giờ, từng phút để đi đến hiện trạng đó. Nhưng liệu ngôi nhà đổ rồi
thì chấm dứt? Đương nhiên là không chấm dứt, đống gạch vụn đó sẽ được dùng vào
nhiều việc khác, có thể chúng được dùng để xây dựng một ngôi nhà mới khác...Tuy
vậy, nếu đang còn nằm trong luân hồi thì đã có tiến hóa ắt cũng có thoái hóa dù
ở phương diện nào; tính chất hay tư tưởng đều do ảnh hưởng của điều kiện hỗ trợ
(Thuận duyên hay nghịch duyên). Một thí dụ để rõ: một nhà triết học thông thái
vì hòan cảnh phải sống đời sống của một anh nông phu, ngày ngày chỉ biết bón
phân cuốc đất thì đương nhiên khả năng ưu việt (về triết học) của anh ta dần
dần bị thoái hóa. Trái lại, tuy anh ta rất vụng về canh tác, nhưng nhờ hằng
ngày huân tập anh ta có thể trở thành một nhà nông giỏi. Do đó ta thấy, nếu
thoái hóa về phương diện này thì tiến hóa về phương diện kia và ngược lại. Tất
cả các mặt trí lực, tình cảm, tư tưởng đều vậy. Cho nên Đức Phật dạy : “Tất
cả chúng sanh ra vào lên xuống trong tam đồ, ác đạo đều do nghiệp lực dẫn dắt
mà tạo thành”. Nghiệp là sức dẫn phát chính cho sự xả thân, thọ thân, chúng
ta sẽ sống trong một hoàn cảnh tốt đẹp, an vui nếu ta gắng trau dồi thiện đạo.
Trái lại chúng ta phải chịu sự thống khổ trong tam đồ, ác đạo nếu làm những
chuyện xấu xa. Đó là một sự công bằng, một lẻ phải.
III. Giá trị nhân bản của giáo nghĩa Luân hồi:
Chúng ta thấy rằng các thuyết khác không thể
có một giải đáp ổn thỏa cho câu hỏi về kiếp người. Chỉ có thuyết luân hồi của
Phật giáo mới có thể giúp nhân loại tìm ra lời giải đáp thích hợp. Đức Phật -
vị Giáo chủ không hai, vì lòng thương vô hạn đối với chúng sanh đang chìm đắm
trong kiếp sống phù du đầy tội ác của kiếp người mà nói thuyết luân hồi, nghiệp
báo không những để chỉ rõ sự thật nhân sinh mà còn cho chúng ta thấy giá trị
vĩnh viễn của mình không phải ở sự xây đắp chốc lát trong hiện tại mà là một
chuỗi đời vô tận, trong đó, nghiệp là đầu mối của mọi vấn đề. Vì thế, giáo lý
luân hồi sẽ giúp chúng ta tự ý thức nghiệp duyên, thấy được chân giá trị của
hành động đúng, không ỷ lại vào một đấng siêu nhiên hay Thượng đế nào.
Trở lại thuyết Độc kiếp là thuyết phủ nhận giá
trị tồn tại của nhân sinh, nếu một ai đó tin theo thuyết này thì chỉ còn một
cách là gấp rút để hưởng thụ khoái lạc, phụng sự những thú tánh đê hèn, mặc dầu
phải gây nên vô số tội ác. Những tệ đoan như tham ô, hối lộ... đều xuất phát từ
tư tưởng này. Những người tin theo thuyết này thì thường xem những tiêu chuẩn
luân lý, đạo đức là những gông cùm khó chịu vì họ cho rằng tất cả sẽ trở thành
tro bụi. Họ không muốn xây đắp gì vào cuộc đời mà họ cho là trống rỗng này.
Thuyết linh hồn bất tử thì trái lại, họ tin vào đấng cứu thế cứu rỗi, ủy thác
cuộc đời cho Thượng đế, phó mặc kiếp sống đưa đẩy của Thần linh. Cuộc đời của
họ trôi qua trong những chuỗi ngày buồn bã không cố gắng. Họ có thể mặc nhiên
gây nhiều tội ác mà không sợ hậu quả, vì họ nghĩ đã có Thần linh che chở. Sau
khi chết, những ai không tin vào Thượng đế, mặc dù có làm đủ điều thiện cũng sẽ
bị trừng phạt, chịu cực hình đời đời dưới địa ngục. Những ai tôn kính Thượng đế
thì dù làm đủ điều ác cũng được sanh lên Thiên đường vui hưởng lạc thú mãi mãi.
Đó hoàn toàn là những ý niệm lỗi thời tiêu cực, bật đèn xanh cho những tên tội
phạm núp bóng dưới chiêu bài phụng sự Thượng đế...
Đối trị lại những tệ đoan trên, Đức Phật dạy
lý luân hồi, giúp chúng ta thoát ra mọi thống khổ, vượt ra ngoài vòng kiềm tỏa
của nghiệp duyên để vươn lên mưu cầu giải thoát. Mọi hành động của chúng ta đều
phải trả giá bằng chính nghiệp thức mà ta đã tạo. Ngoài chúng ta ra không ai có
thể cứu vớt chúng ta. Một hành động làm ra, một lời nói hay ý nghĩ khởi lên nó
sẽ tồn tại mãi mãi trong tiềm thức để rồi từ đó ta phải nhận lảnh nghiệp chủng
ấy. Nghiệp chủng thiện thì gặp thiện, nghiệp chủng ác thì gặp ác, đó là một sự
thật hiển nhiên không thể chối cải. Sự chết không phải là kết thúc sanh mạng mà
chỉ chấm dứt một đoạn đời do nghiệp thức cảm ứng mà thôi. Bởi thế trong từng
sát na sanh diệt của vạn vật chúng ta cần phải ý thức ngôn ngữ và hành động của
mình.
C. Kết Luận:
Giáo nghĩa luân hồi không phải là điều hoàn toàn chủ quan của Phật giáo mà đó là một sự thật do đức Thế tôn chứng nghiệm. Nó không những là giáo nghĩa tối thắng của Phật giáo mà còn là một bó đuốc soi đường, là hướng đạo sinh cho những ai muốn thăng hoa cuộc sống. Mặc khác, trong vấn đề cải tạo nhân sinh và tiến bộ xã hội, giáo nghĩa luân hồi không thể thiếu trong ý thức cá nhân.
Hiểu rõ đạo lý luân hồi, mỗi một người trong
xã hội, nhất là hàng Phật tử cần phải đặt giá trị nhân bản làm đầu, cố công xây
đắp đời sống chân thiện mỹ, xoá bỏ những ảo ảnh nông nổi, bèo bọt của dục lạc
để tự vươn lên tìm ánh sáng giải thoát mà không bị nô lệ bởi bản năng hẹp hòi
của kiếp người đầy cấu nhiễm.
Xóa bỏ thần quyền, mỗi người tự làm hòn đảo
cho chính mình, hiểu được dòng chuyển dịch vô cùng của sinh mạng, mỗi người hãy
tự cải tạo giá trị cuộc sống, vun trồng thiện căn để dần dần đạt đến sự “bất
thối chuyển”, lúc ấy sự luân hồi trong tam đồ, ác đạo sẽ không còn nữa./.